Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 09:11
Chủ nhật, 19/05/2024 12:05
TMO - Tại những nơi có hoạt động kinh doanh du lịch sinh thái dựa vào rừng ngập mặn, chủ rừng trực tiếp kinh doanh nên có thể thu trực tiếp. Nhưng nhiều nơi đang có tình trạng kinh doanh du lịch sinh thái nhỏ lẻ, tự phát, doanh thu không đáng kể hoặc không có cơ sở xác định doanh thu.
Luật Lâm nghiệp và Nghị định 156/2018/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành Luật đã quy định, các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch phải chi trả tối thiểu 1% doanh thu đối với dịch vụ bảo vệ duy trì vẻ đẹp cảnh quan tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái rừng cho kinh doanh dịch du lịch. Tương tự, doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản cũng chi trả tối thiểu 1% doanh thu cho dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn, con giống tự nhiên, nguồn nước từ rừng và các yếu tố môi trường, hệ sinh thái rừng phục vụ nuôi trồng thủy sản. Riêng dịch vụ hấp thụ và lưu trữ các-bon, giảm phát thải khí nhà kính đang trong giai đoạn nghiên cứu thí điểm và dự kiến khoảng 5 – 10 USD/tấn CO2 tương đương.
(Ảnh minh họa)
Theo các chuyên gia, việc thu dịch vụ môi trường rừng ngập mặn đang gặp nhiều thách thức. Theo đó, tại những nơi có hoạt động kinh doanh du lịch sinh thái dựa vào rừng ngập mặn như Vườn quốc gia Mũi Cà Mau, Vườn quốc gia Xuân Thuỷ, Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ... chủ rừng trực tiếp kinh doanh nên có thể thu trực tiếp. Nhưng nhiều nơi đang có tình trạng kinh doanh du lịch sinh thái nhỏ lẻ, tự phát, doanh thu không đáng kể hoặc không có cơ sở xác định doanh thu.
Trong mô hình nuôi trồng thủy sản dựa vào rừng ngập mặn thông thường, đa số chủ rừng trực tiếp nuôi trồng thủy sản trong diện tích rừng được giao quản lý, sử dụng; số lượng người hưởng lợi lớn trong khi hoạt động nuôi trồng thủy sản được thực hiện ở quy mô nhỏ lẻ, doanh thu thấp, nhiều rủi ro. Riêng mô hình nuôi tôm sinh thái, quy định chi trả trực tiếp không có lợi cho chủ rừng kiêm người nuôi tôm (do không thể tham gia đàm phán về mức chi trả và hình thức chi trả), chi phí giao dịch cao (do số lượng chủ rừng lớn).
Ngoài ra, cũng chưa có khung pháp lý cho việc thiết lập thị trường carbon trong lĩnh vực lâm nghiệp nói chung và cho rừng ngập mặn nói riêng; thông tin, dữ liệu về rừng ngập mặn và trữ lượng carbon của các loại rừng ngập mặn chưa đồng bộ, thống nhất trong khi yêu cầu kỹ thuật trong đo lường, kiểm định phức tạp. Đây là những vấn đề cần được đưa ra trong quá trình sửa đổi, bổ sung quy định. Đặc biệt về đối tượng phải chi trả cho dịch vụ hấp thụ và lưu trữ carbon nhằm phát huy tối đa nguồn lực mới này trong thời gian tới.
Theo thống kê, hiện nay, tổng diện tích rừng ngập mặn cả nước khoảng 200.000 ha. Với diện tích này, Việt Nam đứng tốp đầu trong các quốc gia có diện tích rừng ngập mặn trên toàn thế giới. Do Việt Nam có khoảng 3260 km đường bờ biển, chạy dọc theo 28 tỉnh và thành phố từ Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh) đến Càu Mau. Chạy dọc theo đường bờ biển ấy, có một số khu rừng ngập mặn lớn như: rừng ngập mặn Cần Giờ (TP.HCM), rừng ngập mặn Rú Chà (tỉnh Thừa Thiên - Huế), rừng ngập mặn nguyên sinh ở Tam Giang (tỉnh Quảng Nam), rừng ngập mặn ở Cà Mau.
Nổi bật trong số đó là rừng ngập mặn Cần Giờ với tổng diện tích nên tới khoảng 37.000 ha, được mệnh danh là khu rừng ngập mặn đẹp nhất của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, diện tích rừng ngập mặn đang có nguy cơ bị đe dọa nghiêm trong do thu hẹp về diện tích bởi nhiều nguyên nhân. Trong đó, tình trạng ô nhiễm môi trường cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến rừng ngập mặn.
PHẠM DUNG
Bình luận