Hotline: 0941068156

Chủ nhật, 19/05/2024 13:05

Tin nóng

Thêm 50 cây cổ thụ trên cả nước đủ điều kiện công nhận Cây Di sản Việt Nam

Lai Châu: Đa cổ thụ hơn 500 tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam: Nỗ lực hoàn thành kế hoạch 6 tháng đầu năm 2024

Quần thể 53 cây cổ thụ tại Bình Dương được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Quần thể chè Shan tuyết cổ thụ ở Sơn La được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cây nghiến Di sản - Tài sản vô giá của núi rừng Lâm Bình

Tam Kỳ (Quảng Nam): Đón Bằng công nhận Cây Di sản Việt Nam đối với quần thể 9 cây sưa cổ thụ

Cần cơ chế bảo tồn, phát huy giá trị Cây Di sản Việt Nam

Phát hiện 6.978 vụ vi phạm về môi trường trong 3 tháng đầu năm 2024

Hải Dương: Cây muồng ràng ràng 300 năm tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Thanh Oai (Hà Nội): 5 cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Giờ Trái đất 2024: Cả nước tiết kiệm được 428.000 kWh

Quần thể 9 cây sưa cổ thụ ở Tam Kỳ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Hải Phòng: Bồ đề và bàng cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

6 cổ thụ ở Tam Nông được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam: Lan tỏa thông điệp bảo vệ cảnh quan, môi trường ứng phó biến đổi khí hậu

Phát động cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam

Khẩn trương ứng phó cao điểm xâm nhập mặn

Cẩm Phả (Quảng Ninh): Nhiều cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Vĩnh Phúc: Duối cổ thụ hơn 700 tuổi được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Chủ nhật, 19/05/2024

Năm Dần nói chuyện Hổ

Thứ năm, 03/02/2022 12:02

TMO - Hổ được mệnh danh là chú sơn lâm, là “vua” của các loài vật, là biểu tượng cho sức mạnh và những phẩm chất tự nhiên. Ở Việt Nam, những năm Dần (năm Hổ) cũng là mốc thời gian về nhiều sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc. 

Tục thờ Hổ

Hổ là động vật ăn thịt; đứng đầu của sự bảng hung hãn, dũng mãnh, can trường, hiên ngang. Từ những đặc hữu ấy mà hổ trở thành biểu tượng của sự hùng cường có sức mạnh cô song.

Trong quan niệm dân gian Việt Nam, hổ là tượng trưng cho một sức mạnh thiêng liêng diệt trừ được ma quỷ, là biểu tượng quyền uy của kẻ anh hùng. Có hình hổ trấn giữ ở ngưỡng cửa là tà ma không dám xâm nhập. Hình tượng hổ được vẽ thành tranh để thờ cúng ở các đình, đền, coi như “thần tướng gác đền”, được khách đi lễ thắp hương, khấn vái. Dù là con vật hoang dại nhưng hổ đã có sự gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người dân, trong đời sống thường nhật và trong tín ngưỡng tôn giáo.

Hổ còn là con vật thượng thủ ở trên cạn, đối ngịch lại với rồng chiếm vị trí tối cao ở thủy giới. Theo triết lý Âm - Dương, hổ đối lập với rồng góp phần kiềm chế rồng, sự tranh đấu giữa rồng và hổ biểu thị cho lời cầu mong âm dương giao hòa, điềm cát tường: mưa thuận gió hòa, mọi việc phát triển.

Trong quan niệm của người phương Đông, hổ là một con vật linh thiêng, thuộc sứ giả của nhà trời xuống hạ giới ban phúc cho người lành, giáng họa cho kẻ ác, hướng con người đi đến chân, thiện, mỹ. Sự tích thờ thần hổ rất đa dạng, ở mỗi vùng, mỗi dân tộc có sự tích thần hổ khác nhau, nhưng chung quy lại đều thể hiện con hổ có chức năng trừ tà ma, biểu thị cho quyền uy và sức mạnh vô song. Nhiều dân tộc tôn sùng hổ, xem hổ là thần khai tổ của mình, nhiều cộng đồng dân cư thờ hổ như một vị thần cai quản, một số tôn giáo xem hổ như vị hộ pháp, võ sĩ đạo…

Trong Phật giáo, hổ tượng trưng cho sức mạnh đức tin, của nỗ lực tinh thần, vượt qua rừng rậm tội lỗi để hướng thiện. Hổ cùng với khỉ và hươu là ba linh vật tượng trưng cho sức mạnh của niềm tin, sự chiến thắng mọi trở ngại trên con đường tu chứng, diệt trừ được tham, sân, si và ác nghiệp, tu thành quả Phật của con người.

Ở Việt Nam có những câu chuyện về con hổ có tình nghĩa, giúp đỡ con người và khi chết được lập miếu thờ, hổ trả ơn khi người giúp đỡ hoặc tha mạng cho hổ, hổ nuôi con người, hổ cứu giúp con người khỏi ác thú, hổ là thầy dạy võ cho con người …

Cùng với thời gian, sự phát triển của đời sống xã hội, con hổ đã hiện thân với tư cách là con vật thống lĩnh của tín ngưỡng và tôn giáo. Cho đến nay, vùng văn hóa Đông Á rất chuộng hổ, ngày Tết thích treo tranh hổ. Hình tượng hổ còn mang tính nhân đạo, quyền uy và đã trở thành linh vật của tôn giáo.

Những dấu ấn lịch sử tiêu biểu năm Dần ở Việt Nam

Năm 714: Khởi nghĩa của nghĩa quân Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) thắng lợi, lật đổ chính quyền đô hộ nhà Đường, giải phóng đất nước.

Năm Bính Dần (906): Khúc Thừa Dụ đứng ra lãnh đạo nhân dân nổi lên đánh đuổi bọn đô hộ nhà Đường, chiếm thành Đại La, dựng quyền tự chủ cho đất nước. Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ. Ngày 11 tháng Giêng (tức 7/2/906), trước hành động quyết liệt của nhân dân Giao Châu, nhà Đường buộc phải phong chức “Đồng bình chương sự” cho Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ, thừa nhận người Việt cai quản đất Việt, chấm dứt về cơ bản thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm.

Năm Nhâm Dần (1002): Vua Lê Đại Hành thực hiện hàng loạt các biện pháp nhằm chấn chỉnh và cải cách chính trị - hành chính như ban hành pháp luật, đổi tên đơn vị hành chính lãnh thổ, chia tướng hiệu làm 2 ban (văn-võ), tổ chức và trang bị lại cho quân đội.

Năm Mậu Dần (1038): Vua Lý Thái Tôn đích thân ra cày ruộng (cày tịch điền) ở cửa Bố Hải để làm gương cho dân chúng. Tục lệ đẹp này được các triều đại sau đó duy trì và phát huy.

Năm Mậu Dần (1158): Nguyễn Quốc khuyên vua Lý Anh Tôn nên đặt hòm kính ở triều đình để ai có điều gì cần tâu trình, đề nghị, khiếu tố... thì viết giấy bỏ vào. Vua nghe theo và chỉ trong vòng một tháng, đơn, thư, sớ đã đầy hòm. Đây là phương thức tiếp nhận ý kiến nhân dân rất hiệu quả, tiện lợi và tiến bộ.

Năm Canh Dần (1230): Nhà Trần ban hành các bộ sách đồ sộ quy định cách thức tổ chức, hoạt động của chính quyền. Cũng năm này, mức hình phạt trong luật sửa đổi và kinh thành Thăng Long được đại tu về mọi mặt.

Năm Nhâm Dần (1242): Nhà Trần tiến hành cải cách hành chính địa phương với quy mô lớn: chia lại đơn vị hành chính lãnh thổ, tổ chức lại hệ thống quan lại địa phương, làm sổ hộ khẩu, phân loại dân đinh, ấn định cặn kẽ mức tô thuế...

Năm Giáp Dần (1374): Bắt đầu tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ, lấy đỗ trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, hoàng giáp, cập đề, đồng cập đề, gồm 50 người (lệ cũ: thi thái học sinh 7 năm một lần, lấy đỗ 30 người). Cũng năm này, nhà Trần áp dụng nhiều biện pháp để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc như cấm nhân dân mặc áo kiểu người phương Bắc, cấm bắt chước tiếng nói các nước Chiêm, Lào...

Năm Mậu Dần (1398): Tể tướng Hồ Quý Ly tiến hành cải cách ruộng đất toàn diện.

Năm Bính Dần (1506): Nhà Lê tổ chức cuộc thi quân dân rất lớn ở sân điện Giảng Võ với 2 môn: viết và toán. Hơn 3 vạn người dự thi, lấy đỗ 1519 người.

Năm Canh Dần (1650): Lái buôn các tàu thuyền Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Nhật Bản khi tới Kẻ Chợ (Hà Nội) được phép lưu trú tại làng Thanh Trì, Khuyến Lương (ngoại thành Hà Nội). Quan hệ ngoại thương của nước ta bắt đầu phát triển mạnh.

Năm Mậu Dần (1698): Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, quyết định lập phủ Gia Định để quản lý 2 huyện Phước Long (Biên Hòa) và Tân Bình (Sài Gòn, từ sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ Đông). Sài Gòn coi như được thành lập từ đó.

Năm Nhâm Dần (1782): Khởi nghĩa Tây Sơn do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo nhân dân tấn công mãnh liệt vào cả chính quyền chúa Nguyễn ở miền Nam lẫn chính quyền Lê - Trịnh ở miền Bắc, giành thế chủ động trên khắp đất nước. Chúa Nguyễn Ánh đại bại, phải chạy trốn và cầu viện  nước ngoài.

Năm Bính Dần 1806: Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng Đế (Gia Long), trở thành vị vua đầu tiên của triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.

Năm Bính Dần (1866): Nghĩa quân Trương Quyền liên kết với nghĩa quân Pokum Pao chống Pháp xâm lược, làm nên nhiều chiến thắng vang dội ở Việt Nam và Campuchia.

Năm Canh Dần (1950): Chiến dịch Biên giới thắng lợi, quân ta giải phóng dải biên cương Việt - Trung dài 750 km, phá tan hành lang chiến lược và thế bao vây của thực dân Pháp.

Năm Bính Dần (1986): Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khởi đầu đề ra công cuộc đổi mới và phát triển toàn diện đất nước.

Năm Mậu Dần (1998): Kỷ niệm 300 năm thành lập Sài Gòn - Gia Định (thành phố Hồ Chí Minh), 30 năm chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968, 25 năm ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam.

Năm Canh Dần (2010): Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 35 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 65 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, 80 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam. Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XI của Đảng.

 

 

Thanh Kỳ

Thích và chia sẻ bài viết:

Bình luận

    Bình luận của bạn

    cmt
      Web đang chạy kỹ thuật
      Zalo phone Hotline