Hotline: 0941068156
Thứ tư, 27/11/2024 17:11
Thứ tư, 17/07/2024 08:07
TMO - Các hoạt động liên kết của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đã được chú trọng gắn với đầu tư phát triển, từng bước hình thành và phát triển hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, gắn kết các địa phương và phát triển khu kinh tế cửa khẩu và các hình thức hợp tác xuyên biên giới. Tuy nhiên, tính liên kết nội vùng và liên kết vùng lân cận còn yếu, hiệu quả thấp; không gian phát triển bị chia cắt theo địa giới hành chính, chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng.
Quy hoạch vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ là một cơ hội lớn để đánh giá, nhận diện các vấn đề của vùng một cách toàn diện, xác định rõ quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển của vùng, trên cơ sở đó tổ chức không gian phát triển, khai thác và phát huy tối đa những tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh của vùng, biến khó khăn, thách thức thành cơ hội phát triển. Trong quá trình lập quy hoạch vùng thì vấn đề liên kết vùng là một nội dung quan trọng, được thực hiện như một hợp phần riêng để tích hợp vào quy hoạch vùng.
Theo các chuyên gia, thực tế phát triển của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ thời gian qua cho thấy, các hoạt động liên kết của vùng đã được coi trọng gắn với đầu tư phát triển, từng bước hình thành và phát triển hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, gắn kết các địa phương và phát triển khu kinh tế cửa khẩu và các hình thức hợp tác xuyên biên giới. Hình thành một số khu nông nghiệp chất lượng cao, vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh có giá trị. Tuy nhiên, liên kết nội vùng và liên kết với vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Thủ đô còn yếu, hiệu quả thấp; không gian phát triển bị chia cắt theo địa giới hành chính, chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng.
Cụ thể, chưa có cơ chế liên kết và một hội đồng điều phối vùng để điều phối chung. Thiếu nguồn lực thực hiện chính sách liên kết vùng. Thiếu cơ chế để điều tiết lợi ích được tạo ra từ liên kết, điều tiết các nguồn lực phân bổ cho các dự án. Trước khi có Luật Quy hoạch thì vai trò của quy hoạch vùng và quy hoạch ngành còn mờ nhạt, thiếu kết nối giữa các loại quy hoạch, giữa chiến lược - quy hoạch - kế hoạch - đầu tư, thậm chí còn xung đột, mâu thuẫn, chồng chéo. Việc tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập, quy hoạch thường xuyên bị điều chỉnh gây lãng phí tài nguyên và cản trở thu hút đầu tư của xã hội. Chất lượng quy hoạch còn thấp, không gắn với nguồn lực thực hiện.
(Ảnh minh họa)
Thiếu hệ thống hạ tầng giao thông, đường kết nối giữa các địa phương. Các tuyến liên kết nội vùng chưa được đầu tư đồng bộ, liên thông. Đặc biệt, hệ thống đường kết nối Đông - Tây còn ít. Sự phối hợp giữa các phương thức vận tải chưa hợp lý, đồng bộ, tính kết nối không cao. Hệ thống đường giao thông biên giới còn nhiều khó khăn. Hạ tầng đường sắt không phù hợp cho kết nối quốc tế. Cơ chế hợp tác còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các địa phương vẫn chủ yếu tập trung phát triển trong địa giới hành chính của mình, ít phối hợp với các tỉnh lân cận để phát huy lợi thế nhờ vào quy mô. Nhiều cụm, ngành kinh tế và sản phẩm chủ lực có lợi thế chưa được liên kết tốt. Chưa có cơ chế hỗ trợ về tài chính đối với các thành phần kinh tế khi tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm chủ lực của vùng. Thiếu cơ sở dữ liệu của vùng về các sản phẩm chủ lực, nguồn nhân lực, các ngành, lĩnh vực, sản phẩm lợi thế cụ thể, dẫn đến hợp tác liên kết nội vùng và liên vùng chưa hiệu quả.
Theo các chuyên gia, để khắc phục những hạn chế nêu trên cần tuân thủ đúng quy trình lập quy hoạch và tăng cường sự tham gia, phối hợp của các bên liên quan. Luật Quy hoạch tạo ra bước chuyển mới trong công tác quy hoạch, đặc biệt là quy định về quy hoạch vùng như một cấp quan trọng trong hệ thống quy hoạch quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, nhấn mạnh đến yếu tố không gian phát triển, gắn với đó là quy trình lập quy hoạch được tiếp cận theo hướng tích hợp, đa ngành và coi trọng sự tham gia phối hợp của các bộ, ngành, địa phương để xử lý, giải quyết các vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng.
Quá trình đó tạo ra các khu vực khuyến khích phát triển, là cơ sở để tạo lập liên kết các tỉnh trong vùng và thu hút đầu tư phát triển thông qua kết nối về kết cấu hạ tầng các ngành, lĩnh vực, trong đó kết nối về giao thông đóng vai trò hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, quy hoạch vùng phải hướng tới phát triển kinh tế - xã hội vùng một cách cân bằng và hài hòa với mục tiêu cao nhất là bảo đảm “an sinh - an ninh”, giữ đất, giữ rừng, ổn định dân cư, bảo đảm an ninh, trật tự xã hội.
Phải thể hiện rõ nét định hướng liên kết phát triển vùng trong xây dựng quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh. Khi xây dựng quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh, nội dung quy hoạch cần thể hiện rõ yêu cầu liên kết, vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng địa phương trong quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh để triển khai trong thực tiễn, bảo đảm mục tiêu kế hoạch đề ra. Nội dung các quy hoạch cần có sự thống nhất và phân chia một cách hợp lý mục tiêu phát triển, thu hút đầu tư giữa các địa phương để hạn chế tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, không nhất thiết tỉnh nào cũng phải có sân bay, cảng biển hay đường cao tốc. Bên cạnh đó, các quy hoạch cần được bảo đảm bố trí đầy đủ nguồn lực để thực hiện.
Chú trọng quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển hạ tầng giao thông với phát triển các hành lang kinh tế vùng. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các địa phương trong vùng. Nút thắt lớn nhất đối với sự phát triển của vùng là sự yếu và thiếu của hệ thống giao thông kết nối nội vùng, kết nối vùng với Thủ đô Hà Nội và đồng bằng sông Hồng và kết nối với thị trường Trung Quốc. Theo đó, từ nay đến năm 2030 cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện và cơ bản hiện đại hóa mạng lưới hạ tầng giao thông.
Đồng thời, trong giai đoạn tới, việc lựa chọn phát triển kết cấu hạ tầng cần gắn kết việc hình thành và phát triển các hành lang kinh tế. Thúc đẩy liên kết khu vực động lực, các chuỗi liên kết kinh tế, chuỗi sản phẩm. Trong chiến lược tổng thể về liên kết vùng, ngoài các vấn đề về liên kết giao thông, cần hướng đến định hướng phát triển vùng động lực của toàn vùng, từ đó lan tỏa, kích thích kinh tế các khu vực lân cận; định hướng liên kết các chuỗi kinh tế, các chuỗi sản phẩm mang quy mô vùng.
Phát triển xanh, bền vững và toàn diện
Về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 11-NQ/TW nêu rõ: Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đã có sự thay đổi to lớn trong diện mạo và phát triển của Vùng, đóng góp quan trọng vào bảo đảm sự ổn định và phát triển của cả nước. Tuy vậy, cho tới nay, nhiều tiềm năng, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả. Vùng vẫn là "vùng trũng" trong phát triển và là "lõi nghèo" của cả nước.
Nghị quyết 11 đặt mục tiêu phát triển vùng đến năm 2030, tầm nhìn phát triển vùng đến năm 2045 là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện; hình mẫu phát triển xanh của cả nước, trong đó có khoảng 50% số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá trong cả nước; bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc; tổ chức đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường. Nghị quyết xác định 2 khâu đột phá trong phát triển vùng là phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông gắn với các hành lang kinh tế và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
PHAN HUÝNH
Bình luận