Hotline: 0941068156
Thứ hai, 25/11/2024 22:11
Thứ hai, 11/07/2022 14:07
TMO - Xử lý nước thải, chất thải rắn tại đô thị và các khu công nghiệp đang là một vấn đề cấp bách, cần những giải pháp khắc phục theo hướng bền vững. Vì vậy, việc triển khai nhiều phương thức hợp tác, trong đó huy động nguồn lực tư nhân tham gia đầu tư xử lý nước thải, chất thải rắn được đánh giá là hướng đi triển vọng.
Tại tọa đàm “Mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong xây dựng và vận hành các nhà máy xử lý nước thải và chất thải rắn Việt Nam" nhiều ý kiến cho rằng, phương thức hợp tác đối tác công – tư (PPP) trong lĩnh vực xử lý nước thải và chất thải rắn đang được xem là hướng đi triển vọng, với nguồn lực dồi dào và sự tham gia tích cực của khối tư nhân để cùng nhà nước cải thiện mạnh mẽ chất lượng môi trường đô thị.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2021, tổng khối lượng chất thải rắn phát sinh trên địa bàn 45/63 tỉnh/thành phố là khoảng 51.586 tấn/ngày. Trong đó khu vực đô thị phát sinh khoảng 31.381 tấn/ngày và khu vực nông thôn khoảng 21.667 tấn/ngày.
Khối lượng chất thải rắn, nước thải phát sinh đang ngày càng tăng cao, gây ra sức ép lớn đối với hệ thống xử lý
Trong lĩnh vực xử lý chất thải rắn, theo báo cáo của các Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương, lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh hiện nay tại các khu đô thị vào khoảng 38.000 tấn/ngày. Chất thải công nghiệp thông thường ước tính khoảng 25 triệu tấn/năm, còn chất thải nguy hại phát sinh từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, ước tính khoảng 1 triệu tấn/năm.
Trên cả nước, hiện có 1.322 cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt gồm 381 lò đốt chất thải, 37 dây chuyền chế biến compost, 904 bãi chôn lấp; trong đó, có nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh. Với lĩnh vực xử lý nước thải, Việt Nam có khoảng hơn 40 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung đang được vận hành với tổng công suất thiết kế trên 926 nghìn m3/ngày đêm, tỷ lệ nước thải được thu gom và xử lý đối với lượng nước thải được xả thẳng ra hệ thống tiêu thoát nước bề mặt mới chỉ đạt khoảng 13% ...
Trước thực trạng trên, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với mục tiêu cụ thể: đến năm 2030 tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đạt 95%. Theo đó, tỉ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định lần lượt đạt trên 50% đối với đô thị loại II trở lên và 20% đối với các loại đô thị còn lại.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, trong vòng 10 năm tới sẽ cần nguồn đầu tư rất lớn từ 10-20 tỷ USD. Thêm nữa, cần tìm hiểu các giải pháp kỹ thuật, công nghệ; đồng thời nâng cao vai trò cộng đồng, thực hiện xã hội hoá nhằm phát huy mọi nguồn lực tham gia quản lý nước thải và chất thải rắn để ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên, theo đánh giá của ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, việc huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân, xã hội hóa các công trình, dự án đang gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc.
Cụ thể như cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được tình hình thực tế; giá dịch vụ xử lý nước thải, chất thải rắn còn thấp, trong khi chi phí vận hành, bảo dưỡng hệ thống xử lý yêu cầu kinh phí cao, liên tục; cơ chế huy động nguồn lực từ tư nhân vẫn chưa phát huy hiệu quả, thiếu các cam kết, hỗ trợ cụ thể để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thông thoáng và an toàn cho nhà đầu tư…
Bên cạnh đó, công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt nhập khẩu một số loại còn chưa phù hợp với thực tế chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam cũng chưa được phân loại tại nguồn. Trong khi đó, các địa phương hiện cũng đang áp dụng các giá xử lý khác nhau cho các phương pháp xử lý khác nhau.
Huy động nguồn lực tư nhân tham gia đầu tư xử lý nước thải, chất thải rắn được đánh giá là hướng đi triển vọng trong giải quyết vấn đề trên
Do đó, Nhà nước cần xây dựng chiến lược, quy hoạch hợp lý về phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở và hình thành một khung pháp lý rõ ràng cho PPP. Trong đó, có các cơ chế, chính sách về tín dụng, phí dịch vụ, đất đai,... để thu hút đầu tư của tư nhân. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách, đi kèm với hướng dẫn chi tiết đối với các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với lĩnh vực xử lý nước thải và chất thải rắn đô thị.
Xây dựng và ban hành hướng dẫn quy trình lựa chọn chủ đầu tư dự án xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư có áp dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường; đẩy mạnh hình thức đấu thầu rộng rãi lựa chọn nhà đầu tư, ưu tiên đấu thấu quốc tế; hạn chế tối đa tình trạng chỉ định thầu.
Ngoài ra, đối với nhà đầu tư được lựa chọn qua đấu thầu, Nhà nước và nhà đầu tư cần thương thảo các nội dung quan trọng, đặc biệt là phân chia trách nhiệm, cơ chế phối hợp. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện đã ban hành tiêu chí về công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Thông tư 02/2022/TT-BTNMT, nhà đầu tư có thể sử dụng làm căn cứ để xác định đầu tư loại hình công nghệ phù hợp với đặc thù chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam.
Trần Nam
Bình luận