Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 18/01/2025 20:01
Thứ tư, 21/08/2024 14:08
TMO - Hoàn thiện, hiện đại hoá hệ thống quan trắc, khí tượng thuỷ văn là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu. Thời gian tới, ngành Khí tượng Thủy văn đẩy mạnh ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong quản lý, khai thác, chia sẻ thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nhất là tình hình thiên tai thời tiết diễn biến phức tạp, bất thường, việc ứng dụng công nghệ cao, đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống khí tượng thuỷ văn (KTTV) là một trong những giải pháp đột phá nhằm nâng cao chất lượng dự báo.
Nhận thức được tầm quan trọng của mạng lưới KTTV, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch đã bám sát theo nhu cầu thực tiễn nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những mặt còn tồn tại, bất cập của mạng lưới trạm KTTV trong giai đoạn vừa qua. Quy hoạch được xây dựng gắn liền với yêu cầu nâng cao độ chính xác, tính kịp thời và độ tin cậy của công tác dự báo, cảnh báo KTTV, giám sát biến đổi khí hậu phục vụ hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Cụ thể, Quy hoạch phấn đấu đến năm 2025, mật độ trạm bình quân trên toàn mạng lưới đạt mức ngang bằng với các nước phát triển khu vực Đông Nam Á (khí tượng bề mặt đạt 1.100 km2/trạm; trạm đo mưa độc lập 121 km2/trạm; bức xạ 21.000 km2/trạm; định vị sét 15.000 km2/trạm; thủy văn 1.520 km2/trạm/lưu vực; hải văn 112 km/trạm dọc theo bờ biển, ra đa biển 250 km/trạm dọc theo bờ biển); tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm đạt trên 40% đối với trạm khí tượng bề mặt; 50% đối với trạm quan trắc mực nước; 100% đối với các trạm đo mưa độc lập; 20% đối với các trạm đo lưu lượng nước.
Đến năm 2030, mật độ bình quân trên toàn mạng lưới đạt mức ngang bằng với các nước phát triển khu vực châu Á (khí tượng bề mặt đạt 840 km2/trạm, đo mưa độc lập 80 km2/trạm, bức xạ 18.000 km2/trạm, định vị sét 14.000 km2/trạm, ô zôn - bức xạ cực tím 82.000 km2/trạm, thủy văn 650 km2/trạm/lưu vực, hải văn 70 km/trạm dọc theo bờ biển, ra đa biển 200 km/trạm dọc theo bờ biển, trạm phao 650km/trạm dọc theo bờ biển); tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm đạt trên 95% đối với các trạm khí tượng, trạm đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng.
Đặc biệt, theo Quy hoạch được Thủ tướng phê duyệt, định hướng đến năm 2050, cả nước sẽ phát triển 5.886 trạm KTTV, 4.333 trạm đo mưa độc lập, định hướng có 9 trạm thám không vô tuyến, bao gồm duy trì và hiện đại hóa 6 trạm hiện có, bổ sung mới một trạm đến năm 2025, hai trạm tiếp theo bổ sung lần lượt đến năm 2030 và 2050.
Đồng thời chuyển đổi hầu hết các trạm KTTV sang tự động hoàn toàn theo mô hình mạng lưới trạm KTTV hiện đại của các nước phát triển. Nghiên cứu và đưa vào thử nghiệm một số loại hình quan trắc mới gồm trạm quan trắc trên các phương tiện di động như máy bay trinh sát khí tượng, tàu biển, vệ tinh khí tượng và viễn thám, tên lửa khí tượng, thiết bị không người lái và các công nghệ, thiết bị quan trắc hiện đại khác.
Để thực hiện được mục tiêu trên, cần thực hiện một số giải phải như tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về KTTV; xác định rõ vai trò, trách nhiệm, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương; xây dựng lộ trình, phương án phù hợp theo quy định của pháp luật nhằm đẩy mạnh tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập về KTTV.
Xây dựng, bổ sung các cơ chế, chính sách về tổ chức, bộ máy phù hợp với quá trình chuyển đổi mô hình quản lý mạng lưới trạm KTTV theo hướng hiện đại, tự động, giảm thiểu nhân lực và chi phí quản lý vận hành; phát triển các dịch vụ KTTV; thu hút đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác quan trắc KTTV; khuyến khích, thu hút nhân lực chất lượng cao cho công tác KTTV, trọng tâm là nhân lực tự động hóa. Đồng thời chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ công nghệ thông tin, đảm bảo nhất quán trong quá trình tự động hóa mạng lưới trạm KTTV quốc gia. Mở rộng liên kết đào tạo với các tổ chức trong, ngoài nước và trao đổi kinh nghiệm quốc tế để nâng cao trình độ, làm chủ công nghệ quan trắc KTTV.
Hoàn thiện, hiện đại hoá hệ thống quan trắc, khí tượng thuỷ văn là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu.
Triển khai Quy hoạch trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Kế hoạch cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp và huy động nguồn lực gắn với trách nhiệm của các đơn vị trực thuộc Bộ, các bộ, ngành và địa phương liên quan.
Bộ Tài nguyên và Môi trường giao các cơ quan đơn vị tùy theo chức năng rà soát, cập nhật các phương pháp kỹ thuật quan trắc môi trường trong quá trình sửa đổi các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường; nghiên cứu, bước đầu đề xuất các cơ chế chính sách khuyến khích, tăng cường xã hội hóa hoạt động quan trắc môi trường, huy động sự tham gia của các nguồn lực xã hội đầu tư cho hoạt động quan trắc chất lượng môi trường; rà soát, xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật phục vụ hiệu quả cho công tác quan trắc môi trường.
Triển khai các hoạt động quan trắc môi trường theo mạng lưới các điểm quan trắc đã được phê duyệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục duy trì 19 trạm quan trắc chất lượng không khí tự động, liên tục đã được đưa vào vận hành theo Quy hoạch trước đây; nâng cấp, sửa chữa những hạng mục cần thiết đảm bảo đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật về trạm không khí xung quanh tự động, liên tục theo quy định. Bộ cũng hoàn thành việc lắp đặt và đưa vào sử dụng 18 trạm quan trắc chất lượng không khí tự động, liên tục trong Dự án "Đầu tư xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường không khí (giai đoạn 1)".
Bên cạnh đó, Bộ tiếp tục duy trì vận hành 22 trạm quan trắc chất lượng nước tự động, liên tục đã được đưa vào vận hành và chuyển đổi 2 điểm quan trắc chất lượng nước được lồng ghép với Trạm thủy văn Tân Châu (An Giang) và Trạm Thủy văn Mỹ Thuận (Vĩnh Long) thành trạm quan trắc chất lượng nước tự động, liên tục.
Để đẩy mạnh khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế, Bộ TN&MT tập trung nghiên cứu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động truyền, nhận, lưu trữ, xử lý, phân tích và khai thác số liệu quan trắc môi trường; tăng cường ứng dụng công nghệ, thiết bị quan trắc tự động trong hoạt động quan trắc môi trường; nghiên cứu việc sử dụng dữ liệu vệ tinh phục vụ quan trắc, giám sát chất lượng môi trường phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội.
Hướng đến thực hiện hiệu quả Quy hoạch, tháng 5/2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa vào hoạt động Trung tâm Tích hợp, xử lý thông tin, dữ liệu và Điều hành mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia. Hiện Trung tâm tiếp nhận, xử lý, phân tích số liệu quan trắc tự động của 5 dạng dữ liệu gồm: Không khí xung quanh, nước mặt, nước thải, khí thải và nước ngầm từ gần 2.000 Trạm quan trắc môi trường trên 63 tỉnh, thành phố trong cả nước thông qua phần mềm Quản lý dữ liệu quan trắc môi trường tự động (EnviSoft).
Qua đó, giúp cơ quan quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến địa phương theo dõi diễn biến chất lượng môi trường nước và không khí, đánh giá hiện trạng chất lượng môi trường không khí các vùng, các địa phương thông qua chỉ số AQI; theo dõi, giám sát hoạt động xả thải của các cơ sở sản xuất, khu - cụm công nghiệp thuộc đối tượng phải lắp đặt, truyền số liệu quan trắc tự động, liên tục theo quy định. Hoạt động của Trung tâm giúp nâng cao hiệu quả giám sát các nguồn thải lớn; hỗ trợ công tác công bố, công khai thông tin quan trắc môi trường theo quy định.
Linh Chi
Bình luận