Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 10:11
Thứ năm, 31/08/2023 15:08
TMO – Sau nhiều năm thực hiện Nghị định 159/2018 của Chính phủ, đến nay, nhiều quy định không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Do đó cần điều chỉnh.
Theo đó, Nghị định 159/2018/NĐ-CP quy định về quản lý hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng biển và vùng nước đường thủy nội địa được Chính phủ ban hành cuối năm 2018, sau gần 5 năm thi hành, Nghị định 159/2018 còn nhiều điểm vướng mắc, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn.
Cụ thể, Nghị định số 159/2018 quy định hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng biển phải lập Phương án bảo đảm an toàn giao thông. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định 58/2017 quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật Hàng hải Việt Nam về quản lý hoạt động hàng hải, hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng biển cũng phải lập Phương án bảo đảm an toàn hàng hải. Qua rà soát các quy định nêu trên cho thấy hồ sơ đề nghị phê duyệt của Phương án bảo đảm an toàn hàng hải và Phương án bảo đảm an toàn giao thông đối với hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng biển về cơ bản là giống nhau và đều trình Cảng vụ Hàng hải phê duyệt.
Nghị định số 159/2018 quy định, các dự án nạo vét cơ bản trong vùng nước cảng biển và vùng nước đường thủy nội địa phải được đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, một số dự án nạo vét thực hiện đổ chất nạo vét ra biển ngoài việc thực hiện quy định của Luật Bảo vệ môi trường còn phải thực hiện các quy định về lập dự án nhận chìm ở biển, giao khu vực biển theo các quy định tại Luật biển Việt Nam, Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo.
(Ảnh minh họa)
Theo Nghị định 159/2018, đối với các dự án, công trình nạo vét duy tu với khối lượng thực hiện hàng năm có tính quy luật, việc đánh giá tác động môi trường hoặc kế hoạch bảo vệ môi trường được thực hiện theo thời hạn từng năm hoặc theo chu kỳ đến 05 năm. Tuy nhiên, việc hàng năm lập hồ sơ và chi phí để thực hiện các thủ tục về báo cáo đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường, đăng ký môi trường, dự án nhận chìm ở biển, giao khu vực biển chưa phù hợp với thời gian tổ chức nạo vét duy tu cũng như trữ lượng của bãi chứa (có một số công trình phải triển khai trong hai năm). Nghị định 159/2018 quy định UBND cấp tỉnh công bố địa điểm đổ chất nạo vét trên bờ và ngoài biển thuộc phạm vi quản lý trước ngày 30/01 hàng năm. Tuy nhiên, hiện nay nhiều tỉnh chưa triển khai được quy định trên do đó chủ đầu tư gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm vị trí đổ chất nạo vét. Đối với các công trình nạo vét lựa chọn phương án đổ chất nạo vét ở biển, các doanh nghiệp cảng phải thực hiện thủ tục xin chấp thuận vị trí đổ chất nạo vét ở biển, sau đó thực hiện các thủ tục lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, lập dự án nhận chìm ở biển và giao khu vực biển theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Tuy nhiên việc thực hiện các thủ tục trên kéo dài, không phù hợp với các công trình nạo vét duy tu có quy mô nhỏ, ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả của hoạt động duy trì chuẩn tắc thiết kế cũng như kế hoạch sản suất kinh doanh của doanh nghiệp cảng...
Với những tồn tại, vướng mắc nêu trên, Bộ Giao thông Vận tải cho rằng cần xây dựng dự thảo điều chỉnh Nghị định 159/2018 nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động thủy nội địa và cảng biển.
Liên quan đến hoạt động cảng nội địa, mới đây (ngày 22/8/2023) Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch đặt mục tiêu từng bước hình thành và phát triển hệ thống cảng cạn trên phạm vi cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu, tăng năng lực thông qua hàng hóa của các cảng biển; tổ chức vận tải container một cách hợp lý nhằm giảm chi phí vận chuyển và thời gian lưu hàng tại cảng biển, đảm bảo an toàn hàng hóa; góp phần giảm ùn tắc giao thông và bảo vệ môi trường, đặc biệt ở các đô thị lớn và khu vực có cảng biển lớn. Phát triển hệ thống cảng cạn trở thành các đầu mối tổ chức vận tải, trung chuyển, phân phối hàng hóa, kết hợp với cung cấp các dịch vụ logistics.
Mục tiêu đến năm 2030, phát triển hệ thống cảng cạn có khả năng thông qua khoảng từ 25% đến 35% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu theo các hành lang vận tải. Hình thành các cảng cạn, cụm cảng cạn với tổng công suất khoảng từ 11,9 triệu TEU/năm đến 17,1 triệu TEU/năm. Trong đó, khu vực phía Bắc gồm các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 4,29 triệu TEU/năm đến 6,2 triệu Teu/năm; khu vực miền Trung - Tây Nguyên có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 0,9 triệu TEU/năm đến 1,4 triệu TEU/năm; khu vực phía Nam có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 6,8 triệu TEU/năm đến 9,5 triệu Teu/năm. Định hướng đến năm 2050, phát triển hệ thống cảng cạn trở thành các đầu mối tổ chức vận tải, trung chuyển, phân phối hàng hóa, kết hợp với cung cấp các dịch vụ logistics, có khả năng thông qua khoảng 30% - 35% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu theo các hành lang vận tải, đồng thời đáp ứng nhu cầu dịch vụ logistics tại các địa phương.
VŨ MINH
Bình luận