Hotline: 0941068156
Thứ ba, 15/04/2025 11:04
Thứ tư, 09/04/2025 19:04
TMO – Với khoảng 1,8 triệu tấn rác nhựa được thải ra môi trường mỗi ngày, đây là tiềm năng và cũng là cơ hội lớn để hình thành, phát triển ngành công nghiệp tái chế. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, tỷ lệ thu gom để tái chế chỉ đạt khoảng 25-27%, điều này dẫn đến nguy cơ doanh nghiệp Việt bị mất thị phần ngay trên sân nhà.
Hiện nay hàng hóa muốn bước chân vào các thị trường lớn như Liên minh châu Âu (EU), Bắc Mỹ hay Nhật Bản phải đáp ứng những tiêu chuẩn ngày càng khắt khe về vòng đời sản phẩm, tỷ lệ tái chế và lượng phát thải carbon trong quá trình sản xuất. Đặc biệt, từ đầu năm 2025, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như thép, nhôm, xi măng và phân bón bị siết chặt điều kiện tiếp cận nếu không đáp ứng các yêu cầu bắt buộc về tái chế.
Việc thực hiện nghĩa vụ tái chế không chỉ giúp giảm thiểu chất thải, bảo vệ môi trường, mà còn mang lại lợi ích trực tiếp cho chính các doanh nghiệp. Đảm bảo các mặt hàng duy trì được vị thế trên thị trường toàn cầu, đồng thời hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian tới. Hơn nữa, việc hình thành một ngành công nghiệp tái chế trong nước là cực kỳ hiệu quả để nâng cao tỷ lệ tái chế trong từng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của cả thị trường nội địa lẫn quốc tế.
Với số lượng lớn thải ra mỗi ngày, rác nhựa đang tạo cơ hội thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp tái chế. Ảnh minh họa.
Theo số liệu thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, chỉ tính riêng rác thải nhựa, mỗi năm tại Việt Nam có khoảng 1,8 triệu tấn được thải ra môi trường. Tuy nhiên, tỷ lệ thu gom để tái chế chỉ đạt khoảng 25-27%. Tình trạng này phản ánh một bức tranh rộng hơn về những hạn chế trong toàn bộ hệ thống thu gom, phân loại và tái chế chất thải tại Việt Nam.
Được biết, nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp tái chế phát triển, Bộ Nông nghiệp và Môi trường thời gian tới sẽ tham mưu Chính phủ xây dựng và hoàn thiện nhiều chính sách chiến lược. Trong đó, trọng tâm là các cơ chế ưu đãi về thuế, tín dụng xanh và hỗ trợ ban đầu cho các dự án tái chế; đồng thời hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia đối với sản phẩm tái chế và quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh việc hoàn thiện khung chính sách cũng cần có sự vào cuộc mạnh mẽ và chủ động hơn nữa từ phía cộng đồng doanh nghiệp, những người trực tiếp hưởng lợi và cũng là lực lượng quyết định sự thành công của ngành công nghiệp tái chế trong tương lai.
Các doanh nghiệp cần tích cực tham gia vào nỗ lực này. Bởi không chỉ giúp các doanh nghiệp phát triển bền vững, duy trì khả năng xuất khẩu, mà còn góp phần làm môi trường ngày càng xanh - sạch - đẹp hơn. Hơn cả, đây là cơ hội để xây dựng một ngành công nghiệp tái chế tại Việt Nam – một ngành đầy tiềm năng và có thể mang lại lợi nhuận cao trong tương lai. Nếu các doanh nghiệp Việt không kịp thời nắm bắt cơ hội, hành động ngay từ bây giờ thì nguy cơ thời gian tới các doanh nghiệp nước ngoài sẽ nhảy vào khai thác thị trường tái chế và xử lý chất thải tại Việt Nam. Khi đó, doanh nghiệp trong nước nguy cơ cao mất dần thị phần, thậm chí ngay trên chính sân nhà của mình.
Phát triển công nghiệp tái chế không chỉ là lời giải cho bài toán môi trường và tài nguyên, mà còn là chiến lược thích ứng trước những thay đổi trong cấu trúc thương mại toàn cầu. Với quyết tâm từ các cơ quan quản lý và sự vào cuộc tích cực của doanh nghiệp, Việt Nam hoàn toàn có thể biến công nghiệp tái chế thành trụ cột mới trong chiến lược phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng với thế giới.
Tái chế - góc nhìn từ Luật
Theo Nghị định 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ, quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, doanh nghiệp cần áp dụng kinh tế tuần hoàn bằng các biện pháp: hạn chế sử dụng các sản phẩm không thân thiện môi trường; tối ưu hóa sử dụng thiết bị, sản phẩm; tăng hiệu quả sản xuất, sử dụng hiệu quả tài nguyên, nguyên liệu, vật liệu; kéo dài vòng đời sản phẩm và các linh kiện, cấu kiện của sản phẩm; giảm chất thải phát sinh bao gồm: tái chế chất thải (xử lý, chế biến chất thải để chuyển hóa thành nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu có ích); thu hồi năng lượng thông qua thiêu đốt chất thải; thiết kế mặt bằng tổng thể tối ưu, liên kết giữa các dự án đầu tư; phát triển, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện các hoạt động cộng sinh công nghiệp; áp dụng các giải pháp giao thông thân thiện với môi trường, giảm phát thải khí nhà kính.
Luật Bảo vệ môi trường quy định rõ, doanh nghiệp có 2 trách nhiệm chính khi thực thi Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), gồm: trách nhiệm tái chế và trách nhiệm xử lý. Đối với trách nhiệm tái chế, tổ chức cá nhân, nhập khẩu có trách nhiệm tái chế theo tỷ lệ và quy cách bắt buộc đối với sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế; được lựa chọn thực hiện tái chế sản phẩm, bao bì theo một trong các hình thức là tổ chức tái chế hoặc đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì.
Đối với trách nhiệm xử lý, tổ chức cá nhân, nhập khẩu có trách nhiệm đóng góp tài chính đối với trường hợp sản phẩm, bao bì, bì chứa chất độc hại, khó có khả năng tái chế hoặc gây khó khăn cho thu gom, xử lý; đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam.
PHẠM DUNG
Bình luận