Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 13:11
Thứ năm, 09/06/2022 08:06
TMO – Hệ sinh thái biển tạo ra các lợi ích đối với các hoạt động kinh tế trên đất liền. Tuy nhiên, hoạt động trên đất liền lại gây ra những rủi ro cho môi trường sinh thái biển.
Theo các chuyên gia, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo tồn môi trường và đa dạng sinh học biển phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế biển xanh. Theo đó, cần tăng cường áp dụng các công cụ kinh tế, cơ chế dựa vào thị trường (MBA) trong quản lý, khai thác, sử dụng môi trường, đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển. Để có hành lang pháp lý, cần sớm ban hành Nghị định, Thông tư hướng dẫn về thi hành các qui định về công cụ kinh tế và nguồn lực cho bảo vệ môi trường trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được Quốc hội thông qua.
Một số vấn đề cần lưu ý trong xây dựng chính sách này là xây dựng chương trình thử nghiệm về áp dụng, hoàn thiện các quy định “chi trả dịch vụ hệ sinh thái biển”; xây dựng bộ tiêu chí riêng cho các dự án đầu tư kinh doanh trên biển, ven biển đáp ứng yêu cầu về sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn vốn tự nhiên, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học biển để làm căn cứ thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ trong pháp luật bảo vệ môi trường.
Khu bảo tồn biển Cô Tô, đảo Trần (Quảng Ninh)
Việc tìm ra các mô hình phát triển kinh tế biển bền vững có vai trò then chốt trong việc duy trì nền kinh tế biển xanh. Theo các chuyên gia, các Bộ, ngành, địa phương cần rà soát, đánh giá và lựa chọn các mô hình kinh tế biển bền vững phù hợp với mục tiêu vừa phát triển kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, hàng hóa trên thị trường vừa góp phần bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển. Để ứng phó với biến đổi khí hậu, những mô hình đã được nghiên cứu và trình diễn cần được đúc rút kinh nghiệm và triển khai như mô hình kinh tế xanh, mô hình dựa vào hệ sinh thái (EbA) ở các đảo và ven biển.
Cần thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn để nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm chất ô nhiễm từ các hoạt động kinh tế trên đất liền, đặc biệt là nước thải và chất thải nhựa; Tăng cường kiểm soát và sẵn sàng ứng cứu các sự cố và thảm họa môi trường biển, các vụ tràn dầu không rõ nguồn gốc...
Trong ngành thủy sản, về lâu dài cần xây dựng lộ trình giảm số lượng tàu thuyền đánh bắt hải sản cỡ nhỏ, có chính sách riêng biệt với nghề cá nhỏ và nghề cá lớn, kiểm soát, ngăn chặn và loại bỏ các hình thức đánh bắt, khai thác thủy sản mang tính hủy diệt; thực hiện đồng quản lý nguồn lợi thuỷ sản dựa vào cộng đồng; áp dụng chứng chỉ sinh thái, phát triển các mô hình nuôi trồng thủy sản kết hợp bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển dịch vụ hệ sinh thái biển.
Đặc biệt, các vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học biển phải được xem xét một cách nghiêm túc. Theo đó, khai thác các giá trị của khu bảo tồn, cảnh quan thiên nhiên, kết hợp bảo tồn với phát triển du lịch sinh thái; tiếp tục mở rộng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường biển, đất ngập nước ven biển để tạo nguồn thu đầu tư bảo vệ, phục hồi, phát triển đa dạng sinh học và cảnh quan thiên nhiên. Để có cái nhìn tổng quan cần điều tra, thống kê diện tích, đánh giá tình trạng, lập ngân hàng dữ liệu, bản đồ về các vùng đất ngập nước tự nhiên ven biển, các thảm cỏ biển, rạn san hô và các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù khác.
Để bảo vệ vùng biển rộng lớn cũng như khai thác tài nguyên biển dọc hơn 3000 km bờ biển, các chuyên gia cho rằng, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy, cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành với địa phương để hình thành nên một bộ máy tổ chức đủ mạnh để điều phối tổng thể các hoạt động trên biển. Cần đầu tư từ ngân sách nhà nước, ưu tiên vay vốn hỗ trợ phát triển (ODA) thực hiện các chương trình, nghiên cứu, dự án trong và ngoài nước đặc biệt là các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường biển.
Tú Quyên
Bình luận