Hotline: 0941068156
Thứ ba, 26/11/2024 12:11
Thứ sáu, 15/09/2023 13:09
TMO - Hệ thống quan điểm lý luận, tư tưởng của Đảng về vấn đề biến đổi khí hậu, tài nguyên, môi trường tiếp tục được phát triển, hoàn thiện. Do đó, việc tổng kết Nghị quyết 24-NQ/TW cần dựa trên cơ sở chính trị, khoa học, thực tiễn theo quan điểm phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh được nêu trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, có sự gắn kết hữu cơ, chặt chẽ giữa ba trụ cột phát triển bền vững (kinh tế, xã hội, môi trường).
Theo đó, trong phiên họp thứ hai Ban Chỉ đạo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường vừa diễn ra mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà nêu rõ: Nghị quyết 24-NQ/TW đã xác định nhiều quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng đối với công tác ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Vì vậy, các thành viên Ban Chỉ đạo phải xem xét từ thực tiễn, hoạt động quản lý nhằm đánh giá Nghị quyết toàn diện, thực chất kết quả đạt được, mục tiêu chưa hoàn thành, phân tích rõ nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, với sự tham gia của cơ quan quản lý các cấp, chuyên gia, nhà khoa học, địa phương, doanh nghiệp, đoàn thể chính trị-xã hội. Việc tổng kết Nghị quyết 24-NQ/TW đặt trong mối quan hệ hữu cơ, mật thiết với các nghị quyết, chiến lược, kế hoạch trong các lĩnh vực có liên quan như Nghị quyết 36-NQ/TW về chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu.
(Ảnh minh họa)
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW, tăng trưởng nền kinh tế bước đầu có chuyển biến theo hướng xanh hơn. Việc lồng ghép nội dung ứng phó biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường vào các chiến lược, quy hoạch phát triển tiếp tục được đẩy mạnh. Chính sách, pháp luật về phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm môi trường ngày càng hoàn thiện, chuyển sang chủ động kiểm soát các nguồn có nguy cơ gây ô nhiễm. Bảo vệ và phát triển rừng đạt nhiều kết quả tích cực. Số lượng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn đã tăng lên. Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai được nâng lên hàng đầu khu vực và dần tiệm cận với các nước tiên tiến ở châu Á. Việt Nam đã tham gia tích cực cùng với cộng đồng quốc tế về giảm phát thải ròng khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng công bằng. Công tác điều tra cơ bản, đánh giá tiềm năng, trữ lượng quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên đạt được nhiều kết quả quan trọng, bền vững và hiệu quả hơn.
Nhiều mục tiêu đề ra đến năm 2020 của Nghị quyết 24 đã vượt và đạt được như: Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai; giảm dần thiệt hại về người, tài sản do thiên tai gây ra; giảm mức phát thải khí nhà kính trên đơn vị GDP từ 8-10% so với năm 2010; bảo đảm cân đối quỹ đất cho phát triển kinh tế xã hội; giữ và sử dụng linh hoạt 3,8 triệu hecta đất chuyên trồng lúa nhằm bảo đảm an ninh lương thực và nâng cao hiệu quả sử dụng đất; hạn chế tối đa xuất khẩu khoáng sản thô; chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tăng tỉ lệ năng lượng tái tạo, năng lượng mới trên 5% tổng năng lượng thương mại sơ cấp, tiêu hủy xử lý trên 85% chất thải nguy hại; kiểm soát an toàn, xử lý ô nhiễm môi trường do hậu quả chiến tranh…
Tuy nhiên, năng lực phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu; hoạt động phát thải khí nhà kính còn hạn chế; ô nhiễm môi trường vẫn tiếp diễn ở nhiều nơi, nhất là tại các cụm công nghiệp, lưu vực sông, làng nghề; ô nhiễm biển do nuôi trồng thủy sản, rác thải nhựa xảy ra ở nhiều địa phương. Ngập úng do triều cường, xâm nhập mặn, sụt lún, sạt lở bờ sông, bờ biển còn xảy ra ở nhiều nơi, đặc biệt nghiêm trọng ở đồng bằng sông Cửu Long. Số liệu điều tra cơ bản, lập quy hoạch sử dụng các nguồn tài nguyên còn nhiều bất cập, hạn chế.
Nhiều ý kiến cho rằng công tác ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là vấn đề rất khó và phức tạp. Vì vậy, công tác tổng kết cần xác định rõ mục tiêu, quan điểm, tầm nhìn chiến lược dài hạn đồng bộ, khả thi với các giải pháp trong trung hạn, trước mắt, cấp bách; gắn với huy động nguồn lực, quyết tâm của cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương, của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và toàn thể cộng đồng, xã hội, tranh thủ các nguồn lực của cộng đồng quốc tế.
Theo Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, hệ thống quan điểm lý luận, tư tưởng của Đảng vến đề biến đổi khí hậu, tài nguyên, môi trường tiếp tục được phát triển, hoàn thiện. Do đó, việc tổng kết Nghị quyết 24-NQ/TW cần dựa trên cơ sở chính trị, khoa học, thực tiễn theo quan điểm phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh được nêu trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, có sự gắn kết hữu cơ, chặt chẽ giữa ba trụ cột phát triển bền vững (kinh tế, xã hội, môi trường). Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường (thường trực Ban Chỉ đạo) tập trung cao độ, kiện toàn nhân sự để hoàn thiện Đề án Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW bảo đảm chất lượng cao nhất. Trong đó chú ý đến kết quả thể chế hoá các nội dung của Nghị quyết bằng các văn bản pháp luật, có sự so sánh chỉ số, thứ hạng quốc tế, lượng hóa các mục tiêu, nhiệm vụ bằng chỉ tiêu cụ thể; làm rõ sự thay đổi nhanh chóng của bối cảnh trong nước, quốc tế so với thời điểm ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW với sự xuất hiện những vấn đề, xu thế mới là chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, kinh tế tri thức, Net Zero.
Nghị quyết 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được ban hành vào ngày 3/6/2013 với 3 mục tiêu trọng điểm. Cụ thể:
Về ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu của các cơ quan chuyên môn. Hình thành cho mỗi thành viên trong xã hội ý thức chủ động phòng, tránh thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Giảm dần thiệt hại về người, tài sản do thiên tai gây ra. Chủ động phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng đối với vùng ven biển, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, ven biển miền Trung, trước hết là khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau và các thành phố ven biển khác. Giảm mức phát thải khí nhà kính trên đơn vị GDP từ 8 - 10% so với năm 2010.
Về quản lý tài nguyên, Nghị quyết 24 đặt mục tiêu đánh giá được tiềm năng, giá trị của các nguồn tài nguyên quan trọng trên đất liền. Đạt được bước tiến quan trọng trong điều tra cơ bản tài nguyên biển. Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia. Ngăn chặn xu hướng suy giảm tài nguyên nước ngọt và tài nguyên rừng; nâng cao hiệu quả sử dụng nước tính trên một đơn vị GDP. Bảo đảm cân đối quỹ đất cho phát triển kinh tế - xã hội; giữ và sử dụng linh hoạt 3,8 triệu ha đất chuyên trồng lúa nhằm bảo đảm an ninh lương thực và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Khai thác hiệu quả và bền vững sinh thái, cảnh quan, tài nguyên sinh vật. Hạn chế tối đa xuất khẩu khoáng sản thô.
Chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tăng tỉ lệ năng lượng tái tạo, năng lượng mới lên trên 5% tổng năng lượng thương mại sơ cấp; giảm tiêu hao năng lượng tính trên một đơn vị GDP.
Về bảo vệ môi trường, Nghị quyết 24 đặt mục tiêu không để phát sinh và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; 70% lượng nước thải ra môi trường lưu vực các sông được xử lý; tiêu huỷ, xử lý trên 85% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế; tái sử dụng hoặc tái chế trên 65% rác thải sinh hoạt. Phấn đấu 95% dân cư thành thị và 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh. Kiểm soát an toàn, xử lý ô nhiễm môi trường do hậu quả chiến tranh. Nâng cao chất lượng môi trường không khí ở các đô thị, khu vực đông dân cư. Cải thiện rõ rệt môi trường làng nghề và khu vực nông thôn. Quản lý khai thác hợp lý, sớm chấm dứt khai thác rừng tự nhiên, nâng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên lên trên 3 triệu ha; nâng độ che phủ của rừng lên trên 45%.
PHẠM DUNG – HẢI YẾN
Bình luận