Hotline: 0941068156
Thứ năm, 21/11/2024 18:11
Thứ bảy, 12/10/2024 13:10
TMO - Trong những năm gần đây, cá tra đã trở thành một trong mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực, có tăng trưởng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay mặt hàng này đang gặp phải một số khó khăn thách thức về số lượng và chất lượng cá tra giống...
Cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: Năm 2023 và 9 tháng của năm 2024, ngành hàng cá tra đối mặt với nhiều khó khăn như giá nhiên liệu, giá vật tư, thức ăn tăng. Suy thoái kinh tế khiến nhu cầu tiêu dùng sụt giảm tại nhiều nước xuất khẩu dẫn đến giá bán cá tra nguyên liệu giảm, gây khó khăn cho các cơ sở sản xuất giống và nuôi thương phẩm. Giá cả một số hàng hóa, vật tư đầu vào phục vụ phát triển thủy sản vẫn còn ở mức cao, chi phí logistic cao gây áp lực đối với hoạt động sản xuất, đặc biệt là khi nhu cầu tiêu thụ chững lại và quy mô sản xuất bị thu hẹp.
Bên cạnh đó, tình hình hạn hán, xâm nhập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long, ô nhiễm môi trường, rác thải nhựa,... vẫn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi trồng thủy sản. Ủy ban châu Âu tiếp tục giữ khuyến cáo về sử dụng kích dục tố (HCG) trong sản xuất ca tra giống của Việt Nam; nhiều quốc gia yêu cầu tiêu chuẩn ngày càng khắt khe đối với sản phẩm thủy sản nhập khẩu.
Mặc dù đối diện với nhiều khó khăn song Bộ NN&PTNT cùng các địa phương tích cực tham gia, liên kết sản xuất, tiêu thụ cá tra trong các qua vẫn đạt được một số kết quả tốt. Tính đến nay diện tích cá tra nuôi đạt 4.241ha, với sản lượng ước đạt tên 1,2 triệu tấn.
Giá cá tra nguyên liệu loại 1 dao động trong khoảng 27.000-28.000 đồng/kg, tăng khoảng 500-1000 đồng/kg so với tháng 8 và cao hơn khoảng 500 đồng/kg so với cùng kỳ năm 2023. Giá cá tra giống loại 30 con/kg giá 26.000 đồng/kg, tăng khoảng 4.000-5.000 đồng/kg so với cùng kỳ tháng 8/2024 và thấp hơn khoảng 5.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm 2023. Về kim ngạch xuất khẩu cá tra 9 tháng của năm 2024 đạt 1,5 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2023. Xuất khẩu cá tra chủ lực sang các thị trường chính gồm Trung Quốc, Mỹ, EU, Brazil…
Xuất khẩu cá tra 9 tháng của năm 2024 đạt 1,5 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2023.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết dù đạt được nhiều kết quả, nhưng ngành hàng cá tra, đặc biệt sản xuất, ương dưỡng cá giống vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Trong đó, tỉ lệ cá sống trung bình rất thấp ở cả hai giai đoạn ương cá hương và cá giống. Nguyên nhân chính có thể là sự suy giảm chất lượng nguồn nước, biến đổi khí hậu dẫn đến sự thay đổi tiêu cực của các điều kiện sản xuất cơ bản và tình trạng này có dấu hiệu nghiêm trọng hơn trong những năm gần đây.
Bên cạnh đó, khả năng phòng ngừa dịch bệnh đối với giai đoạn ương từ cá hương lên cá giống khó thực hiện; trong quá trình vận chuyển cá dễ gây ra tổn thương và dẫn đến suy giảm chất lượng cá giống. Ngoài ra, nguồn lực cho phát triển giống cá tra còn nhiều hạn chế nên việc chủ động trong nghiên cứu, sản xuất gặp không ít khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm…
Theo các chuyên gia dự báo những tháng cuối năm 2024 và năm 2025 ngành hàng cá tra có thể vẫn tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như xung đột địa chính trị dẫn đến giá vật tư, xăng dầu tiếp tục tăng cao. Biến đổi khí hậu được dự báo khắc nghiệt hơn năm 2024 với nhiệt độ tăng cao dẫn đến hạn hán, xâm nhập mặn. Đây là nguyên nhân gây ra những yếu tố bất lợi cho sản xuất, ương dưỡng giống và nuôi cá tra thương phẩm, tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh và gây khó khăn cho sản xuất. Bên cạnh đó, ngành hàng này vẫn phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật ngày càng khó của các thị trường nhập khẩu.
Để khai thác tốt nhất cơ hội, hạn chế rủi ro, vượt qua thách thức, phấn đấu đạt mục tiêu năm 2024, kế hoạch 2025 cần tiếp tục duy trì giống cá tra chất lượng cao phục vụ cho diện tích thả dự kiến 5.700 ha, với sản lượng cá tra thương phẩm dự kiến đạt trên 1,7 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt trên 2,0 tỷ USD.
Việc nâng cao chất lượng giống cá tra giữ vai trò quan trọng.
Theo Cục Thủy sản, cả nước có 1.920 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá tra, trong đó có 2 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống bố mẹ. Có 76 cơ sở sản xuất giống thương phẩm, 1.842 cơ sở ương dưỡng cá tra giống (từ cá bột lên cá giống). Cả nước có 2 cơ sở sản xuất giống cá tra bố mẹ được Bộ NN&PTNT cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản bố mẹ và hàng năm được kiểm tra duy trì theo quy định, công suất sản xuất cá bố mẹ một năm đạt trên 30.000 con cá bố mẹ, đáp ứng nhu cầu cho phục vụ sản xuất giống nuôi thương phẩm.
Hiện nay có 97/1.842 cơ sở ương dưỡng cá tra giống được cấp giấy chứng nhận, hết tháng 9/2024 thực hiện kiểm tra duy trì được 81/97 cơ sở. Có 61/76 cơ sở sản xuất cá tra bột, 97/1.842 cơ sở ương dưỡng cá tra đã được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản.
Bộ NN&PTNT cho rằng, để có con cá tra da trơn hoàn hảo đạt chất lượng sạch bệnh từ ao nuôi đến xuất khẩu, trước hết Bộ NN&PTNT đề nghị các địa phương quản lý chặt các cơ sở sản xuất giống cá tra. Các cơ sở sản xuất giống cá tra trên địa bàn nào đủ điều kiện cơ quan cấp giấy chứng nhận, nếu cơ sở nào không đủ điều kiện thì tuyệt đối không cấp giấy phép và có biện pháp xử lý nghiêm. Vì có con giống tốt sẽ quyết định năng suất và chất lượng.
Bên cạnh đó khuyến cáo giảm sử dụng chất cấm và kháng sinh trong ao nuôi mà tăng cường phòng bệnh trên đàn cá tra bằng việc tăng cường tiêm phòng vacxin nhằm giảm dịch bệnh. Cần phải đầu tư cơ sở hạ tầng một cách bài bản cho các vùng ương nuôi cá giống và cả nuôi thương phẩm. Bên cạnh đó, tăng cường thực hiện tốt Đề án cá tra 3 cấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long phải đồng bộ, hiệu quả nhằm đáp ứng đủ nhu cầu con giống chất lượng cao ổn định cung-cầu về sản xuất giống, có thương hiệu, truy xuất nguồn gốc, huy động các thành phần kinh tế tham gia chuỗi. Từ đó, góp phần phát triển ngành hàng cá tra theo hướng bền vững đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.
Trong đó, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất theo hướng công nghệ cao, sử dụng hệ thống nhà màng, nhà lưới, thiết kế bảo đảm sự thay đổi linh hoạt về cấu trúc đã được áp dụng nhằm giảm thiểu mức độ chênh lệch nhiệt độ giữa ngày về đêm, giữa các mùa trong năm. Nhờ đó, cá bố mẹ đã ít chịu ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ và thành thục tốt hơn, giúp cho việc chủ động sản xuất cá bột quanh năm. Các giai đoạn cá hương, cá giống và cá hậu bị của chương trình chọn giống cũng có sự phát triển và tỉ lệ sống tốt nhờ sự che chắn, bảo vệ của các hệ thống nhà màng, nhà lưới công nghệ cao này.
Hải Hà
Bình luận