Hotline: 0941068156
Thứ hai, 17/11/2025 12:11
Thứ hai, 17/11/2025 06:11
TMO - Hướng đến mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, tỉnh Quảng Trị triển khai chương trình khôi phục hệ sinh thái rừng dựa trên các loài cây bản địa. Việc đưa nguồn giống đặc trưng của địa phương vào trồng thay thế giúp nâng cao chất lượng rừng, tăng khả năng phòng hộ và bảo vệ môi trường trong dài hạn.
Sau sáp nhập, tỉnh Quảng Trị (mới) hiện có 285.878 ha rừng và đất lâm nghiệp, chiếm 60,8% diện tích toàn tỉnh. Khoảng 20.000 ha rừng tự nhiên được giao cho cộng đồng và hộ gia đình quản lý, bảo vệ. Đặc biệt, tại 2 xã Hướng Lập và Hướng Phùng (huyện Hướng Hóa cũ) hiện có 5 cánh rừng tự nhiên đạt chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) với diện tích gần 2.145 ha, hấp thụ khoảng 7.000 tấn CO₂/năm và lưu trữ 350.000 tấn CO₂.
Rừng có ý nghĩa vô cùng lớn với tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên trong bối cảnh biến đổi khí hậu và những trường hợp vi phạm đến tài nguyên rừng đã gây ảnh hưởng lớn. Do đó địa phương đang tập trung triển khai nhiều chương trình phục hồi hệ sinh thái rừng với trọng tâm là sử dụng các loài cây bản địa – những giống cây đã thích nghi tự nhiên với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương.
Việc ưu tiên trồng các loài cây đặc hữu như lim xanh, sến mật, táu, trám… giúp rừng tái sinh đúng cấu trúc, đảm bảo khả năng phòng hộ và duy trì đa dạng sinh học. Các dự án phục hồi rừng được thực hiện theo hướng đồng bộ, từ khảo sát hiện trạng, chọn loài phù hợp đến chăm sóc, bảo vệ sau trồng.
Đồng thời, chính quyền địa phương kết hợp tuyên truyền, vận động người dân tham gia bảo vệ rừng, hạn chế khai thác trái phép và hỗ trợ sinh kế gắn với lâm nghiệp bền vững. Nhiều mô hình trồng rừng bằng cây bản địa bước đầu đã cho thấy hiệu quả rõ rệt, độ che phủ tăng, đất đai được phục hồi, môi trường sinh thái được cải thiện.

Trồng rừng bằng các loài cây bản địa được Quảng Trị chú trọng triển khai. (Ảnh: BDTMN).
Đơn cử tại bản Kè, xã Tuyên Lâm, tỉnh Quảng Trị, một đơn vị doanh nghiệp mới đây đã phối hợp chính quyền địa phương tổ chức trồng và phục hồi 11 ha rừng tự nhiên tại khu vực rừng cộng đồng của bản bằng các giống cây bản địa. Đây không phải là lần đầu mà trước đó nhiều năm, doanh nghiệp này hỗ trợ người dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình (cũ) trồng rừng tự nhiên ở đầu nguồn sông Gianh, vùng có đàn voọc gáy trắng sinh sống và tại Vườn thực vật-Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.
Cán bộ xã Tuyên Lâm cho biết, sau 3 năm trồng, cây xanh tốt và sinh trưởng mạnh mẽ, hứa hẹn sẽ trở thành vùng rừng tự nhiên tạo thêm sinh cảnh cho đàn voọc. Năm 2023, doanh nghiệp trên hỗ trợ địa phương trồng 10 ha rừng là cây bản địa, như lát hoa, gáo vàng, lim xanh với sự tham gia của 36 hộ dân.
Công ty còn trợ giúp bà con 870 triệu đồng để làm một đoạn đường cấp phối, mua giống cây, làm đất, phân bón, bảo vệ và chăm sóc rừng; sau đó tiếp tục hỗ trợ kinh phí để trồng 4 ha cà gai leo dưới tán rừng.
Qua một thời gian trồng, chăm sóc, cây cà gai leo đã cho thu hoạch được 222 kg hạt, 6.780 kg thân và lá, giá trị thu được gần 95 triệu đồng. Ngoài ra, một số hộ còn thâm canh các loại cây trồng khác mang lại giá trị kinh tế cao. Theo chia sẻ của người dân thôn 1 Thiết Sơn cho biết, các giống cây bản địa được hỗ trợ trồng trên địa bàn phù hợp với chất đất, khí hậu nên phát triển nhanh.
Được giao trồng và chăm sóc cây rừng, gia đình cũng nhận hỗ trợ kinh phí, kỹ thuật để trồng 5 sào cây cà gai leo và khoai môn. Ngay trong vụ đầu tiên, cà gai leo và khoai môn đã giúp gia đình có khoản thu nhập hơn 25 triệu đồng. Bây giờ người dân lại trồng cây nghệ, còn một phần khoanh lại trồng cỏ nuôi bò và mùa sau sẽ tiếp tục trồng cây môn lấy củ.
Được biết bản Kè là nơi khởi điểm của chương trình trồng rừng tự nhiên nhiều ý nghĩa xã hội với tên gọi "Góp một cây để có rừng". Sau 4 năm, những cây giống ngày nào nay đã trưởng thành, cao vượt đầu người. Các loài cây được chọn trồng đều là cây bản địa như lim, lát, giổi, vàng tim, sao đen... với khả năng thích nghi tốt, bộ rễ sâu giúp giữ đất, giữ nước, cải thiện chất lượng đất và giảm nguy cơ xói mòn.
Một số chuyên gia lâm nghiệp đánh giá, những cây này phát triển thành rừng sẽ mở ra cơ hội tái tạo hệ sinh thái tự nhiên và mang lại sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Điều đặc biệt hơn cả, rừng trồng ở đầu nguồn sông Gianh là mô hình "trồng rừng cộng đồng" đúng nghĩa. Người dân trồng, trực tiếp chăm sóc, bảo vệ khu rừng xuyên suốt quá trình phát triển.

Lực lượng kiểm lâm Quảng Trị tuần tra, bảo vệ rừng. (Ảnh: BTN).
Họ dựng hàng rào bảo vệ cây non khỏi bị gia súc phá, thường xuyên kiểm tra tình trạng cây, theo dõi tốc độ sinh trưởng và thực hiện các mô hình sinh kế phù hợp dưới tán rừng. Nhờ sự gắn bó ấy, khu rừng là không gian xanh của bản làng và trở thành phần gắn kết với đời sống, trách nhiệm của cộng đồng.
Bên cạnh đó, Lãnh đạo UBND xã Tuyên Phú (tỉnh Quảng Trị) nhận xét, mô hình trồng cây bản địa kết hợp các loại cây khác cho thấy hiệu quả trên cùng đơn vị diện tích đất sản xuất. Đây được xem như mô hình kinh tế tuần hoàn dưới tán rừng tự nhiên để lấy ngắn nuôi dài. Không chỉ mang lại thu nhập, tạo việc làm cho người dân, mô hình trồng rừng bằng cây bản địa còn góp phần cải thiện môi trường, mở rộng không gian, sinh cảnh cho đàn voọc gáy trắng quý hiếm và nguồn gỗ quý cho sau này.
Việc khôi phục hệ sinh thái rừng bằng các loài cây bản địa đang mở ra hướng đi bền vững cho Quảng Trị trong công tác bảo vệ và phát triển rừng. Cách làm này không chỉ đảm bảo tính phù hợp sinh thái mà còn đem lại nhiều lợi ích dài hạn, từ tăng khả năng giữ nước, chống xói mòn đến cải thiện chất lượng môi trường và bảo tồn nguồn gen quý.
Bằng việc kết hợp trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh và huy động cộng đồng tham gia bảo vệ, tỉnh đã tạo ra sự chuyển biến đáng kể trong nhận thức và hành động của người dân về vai trò của rừng tự nhiên.
Trong thời gian tới, nếu tiếp tục duy trì mô hình này theo hướng mở rộng diện tích, áp dụng khoa học – kỹ thuật và tăng cường quản lý, Quảng Trị sẽ từng bước khôi phục toàn diện hệ sinh thái rừng, xây dựng nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế lâm nghiệp và ổn định sinh kế vùng cao. Đây cũng là giải pháp quan trọng góp phần thực hiện các cam kết về bảo vệ môi trường, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Nguyễn Hậu
Bình luận