Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 21/12/2024 00:12
Thứ tư, 18/12/2024 06:12
TMO - Việt Nam được coi là nước có tiềm năng lớn về nguồn cung ứng tín chỉ carbon, nếu thực hiện được các giao dịch tương xứng. Tại tỉnh Nghệ An, với diện tích hơn 1 triệu hecta rừng và đất lâm nghiệp, đây là địa phương có nhiều dư địa để khai thác, phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng, góp phần quan trọng cho cải thiện sinh kế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho người dân.
Năm 2023 đánh dấu cột mốc, lần đầu tiên Việt Nam bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (10,3 triệu tấn CO2) thông qua Ngân hàng Thế giới, tổng giá trị thu về lên tới 51,5 triệu USD (khoảng 1.250 tỷ đồng). Đối với tỉnh Nghệ An, tỉnh hiện có hơn 1 triệu héc ta rừng và đất lâm nghiệp, đây là tỉnh có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn trong cả nước. Diện tích rừng của Nghệ An chủ yếu phân bố ở 11 huyện miền Tây Nghệ An (chiếm 84% diện tích cả tỉnh), có đặc điểm địa hình miền núi cao rất thuận lợi cho phát triển nhiều ngành nghề thuộc nhiều lĩnh vực. Đồng thời cũng là địa phương có tiềm năng lớn trong việc hình thành, phát triển thị trường tín chỉ carbon.
Tại Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An - một trong những khu dự trữ sinh quyển có diện tích lớn nhất khu vực Đông Nam Á; là hành lang xanh nối kết 3 vùng lõi gồm Vườn Quốc gia Pù Mát, Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống và Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt, nơi có sự đa dạng sinh học rất lớn.
Cùng với đó là diện tích rừng rộng lớn của các Ban quản lý rừng phòng hộ, đất Nông Lâm trường. Đây không những là khu vực có giá trị lớn về khoa học, môi trường mà còn mang đậm bản sắc văn hóa, nhân văn và lịch sử cần được bảo tồn và phát triển. Do vậy, ngay từ khi Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An được UNESCO chính thức công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới (ngày 18/9/2007), tỉnh Nghệ An đã xây dựng chương trình hành động và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của khu Khu dự trữ sinh quyển.
Và một trong những giải pháp đó là xã hội hóa công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển kinh tế rừng. Điểm sáng trong huy động nguồn lực đầu tư vào khu vực này đó là nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi trường rừng, nguồn thu này đã góp phần hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững, tăng trưởng xanh; góp phần quan trọng cho cải thiện sinh kế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho người dân, đặc biệt là tạo diện mạo mới cho công cuộc xây dựng nông thôn mới của các địa phương.
Đây cũng chính là cơ sở quan trọng để Nghệ An trở thành một trong 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ được thực hiện thí điểm về Thoả thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính (Nghị định số 107/2022/NĐ-CP về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ - ERPA).
(Ảnh minh hoạ).
Năm 2007, trên thế giới hình thành thị trường tín chỉ carbon rừng, đây là cơ chế khẳng định rõ các hoạt động chống mất rừng, suy thoái rừng góp phần tích cực làm giảm phát thải khí nhà kính (REDD); cho phép chuyển quyền carbon được tạo ra từ các hoạt động REDD. Việt Nam đã tham gia thực hiện sáng kiến REDD+ và Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Nghệ An là đối tác quan trọng của Dự án Hỗ trợ sẵn sàng thực hiện REDD+ giai đoạn 2 được thực hiện từ năm 2016, với mục tiêu thực hiện các hoạt động chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+ tại 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ.
Và thành quả đó đã đến từ năm 2020, khi thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ, gọi tắt là ERPA được ký kết giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế.
Nguồn thu từ ERPA là nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng đối với loại hình dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng, giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững, tăng trưởng xanh theo quy định của Luật Lâm nghiệp.
Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Nghệ An là cơ quan thực hiện hoạt động quản lý nguồn thu từ ERPA trên địa bàn tỉnh Nghệ An, bao gồm hoạt động điều phối nguồn thu, hoạt động kiểm tra, giám sát đánh giá, hoạt động truyền thông và hoạt động giải quyết thắc mắc, khiếu nại, phản hồi. ERPA chi trả cho các hoạt động đóng góp trực tiếp cho giảm phát thải khí nhà kính, hỗ trợ các hoạt động lâm nghiệp và hỗ trợ phát triển sinh kế cho các cộng đồng tham gia hoạt động quản lý rừng.
Nghệ An có được nguồn thu này cùng với các nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng khác là động lực cũng là trách nhiệm để công tác bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sống ngày càng tốt hơn, bền vững hơn; đồng thời nguồn thu này góp phần đáng kể vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho những người ngày đêm đóng góp công sức để bảo vệ rừng. Qua chuyến đi khảo sát cơ sở để đánh giá tác động ban đầu của chương trình này từ các hoạt động đã thực hiện cho thấy những kết quả tích cực.
Đối với công tác bảo vệ rừng: Nguồn thu này đã bổ sung nguồn lực cho công tác quản lý rừng, tuần tra bảo vệ rừng của các chủ rừng; theo dõi diễn biến rừng và phát hiện kịp thời các hoạt động khai thác trái phép. Đồng thời cũng đã thu hút được đông đảo người dân tham gia bảo về rừng, là cầu nối giữa cộng đồng dân cư với các chủ rừng là tổ chức thông qua hoạt động khoán bảo vệ rừng, cùng tham gia quản lý rừng... Về công tác bảo tồn đa dạng sinh học: Theo đó, nguồn thu từ việc bán tín chỉ carbon góp phần cho các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học, như quản lý khu bảo tồn, các hoạt động nghiên cứu và giáo dục môi trường.
Thông qua chương trình này đã giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của rừng và đa dạng sinh học, khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động bảo tồn. Bên cạnh đó là tạo thêm nguồn lực cho người dân trồng rừng, tham gia tích cực thực hiện chương trình trồng rừng gỗ lớn nhằm gia tăng giá trị của rừng, góp phần cải thiện thu nhập cho người trồng rừng, cung cấp các giải pháp sinh kế bền vững cho người dân địa phương như trồng cây dược liệu, lâm sản ngoài gỗ, phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Công tác bảo vệ rừng của Nghệ An đã có nhiều đột phá. (Ảnh minh hoạ).
Chương trình này cũng tác động tích cực đến cộng đồng như: Hỗ trợ cho các cộng đồng thực hiện các công trình công cộng của cộng đồng sống gần rừng như nước sạch, điện chiếu sáng, thông tin liên lạc, đường giao thông thôn bản, nhà văn hóa... các công được hỗ trợ xây dựng, đã góp phần vào mục tiêu xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh sự phát triển của các mô hình du lịch cộng đồng. Bên cạnh đó, chương trình còn nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường, nhiều người dân đã trở thành những “nhà bảo vệ môi trường” tích cực.
Cùng với việc tích cực phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng, tỉnh Nghệ An còn triển khai thực hiện tốt việc chi trả dịch vụ môi trường rừng, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Nghệ An đã tập trung công tác tuyên truyền với nhiều hình thức, phương pháp truyền thông đa dạng, tạo chuyển biến tích cực về thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Được sự quan tâm và hỗ trợ của các cấp, ngành liên quan và nỗ lực của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng, Nghệ An đã huy động được nguồn thu dịch vụ môi trường rừng (từ ngày 01/01/2024 đến ngày 15/11/2024) là 128,1 tỷ đồng, đạt 106% kế hoạch, trong đó: Thu từ các cơ sở sản xuất thuỷ điện 124,95 tỷ đồng; Thu từ các cơ sở sản xuất và cung ứng nước sạch 2,333 tỷ đồng; Thu từ các cơ sở sản xuất công nghiệp: 73 triệu đồng…
Từ nguồn thu đó, Quỹ đã giải ngân tiền dịch vụ môi trường rừng và trích quỹ dự phòng (từ ngày 01/01/2024 đến ngày 5/11/2024) với số tiền gần 122 tỷ đồng, bao gồm: Chi cho các chủ rừng và các hoạt động bảo vệ rừng gần 109,84 tỷ đồng; Trích dự phòng hơn 6,4 tỷ đồng... Thông qua nguồn tiền đó, năm 2024 tổng diện tích rừng được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng hơn 556.000 ha.
Để biến tiềm năng carbon rừng thành hàng hóa, việc xây dựng, vận hành thị trường tín chỉ carbon cần được sớm xúc tiến. Ðây cũng là yếu tố quan trọng nhằm hiện thực hóa mục tiêu Việt Nam đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, theo cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26). Việc phát triển thị trường tín chỉ carbon sẽ giúp Nghệ An nói riêng và Việt Nam nói chung xanh hoá nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp và đặc biệt là giảm thiểu khí nhà kính.
Hoàng Vinh
Bình luận