Hotline: 0941068156
Thứ sáu, 21/02/2025 08:02
Thứ bảy, 15/02/2025 13:02
TMO - TP. Hà Nội xác định, phát triẻn làng nghề là một trong những nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Để nâng cao giá trị của làng nghề, công tác bảo vệ môi trường được coi là nhiệm vụ quan trọng.
Hà Nội có quy mô số làng nghề lớn nhất cả nước, với khoảng 1.350 làng nghề và làng có nghề (tính đến hết năm 2023), trong đó có 327 làng nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận, được phân bố trên 24 quận, huyện.
Trong số các làng nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận, nhóm sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ là 200 làng (chiếm 61,2%); nhóm chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản 70 làng (chiếm 21,4%); nhóm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có 22 làng (chiếm 6,7%); nhóm xử lý chế biến, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn với 16 làng nghề (chiếm 4,89%); nhóm sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh có 14 làng nghề (chiếm 4,28%); nhóm các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn có 05 làng nghề (chiếm 1,53%)
Doanh thu của 327 làng nghề, làng nghề truyền thống toàn Thành phố tính hết năm 2023 đạt trên 24.000 tỷ đồng/năm, trong đó có khoảng 20 làng nghề có doanh thu trên 50 tỷ đồng, khoảng 70 làng nghề có doanh thu từ 20-50 tỷ đồng và khoảng 100 làng nghề đạt doanh thu từ 10-20 tỷ đồng/năm.
Các làng nghề hiện thu hút khoảng 800 nghìn lao động tham gia làm việc. Hiện nay, nhiều làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu của Hà Nội đã thu hút trên 70% lao động phi nông nghiệp, hạn chế lao động di dời từ nông thôn ra thành thị tìm việc, đem lại giá trị sản xuất vượt trội so với nông nghiệp, tổng thu nhập từ làm nghề chiếm tới 70-80%. Nhiều làng nghề truyền thống có lịch sử hình thành và phát triển trên hàng trăm năm được du khách trong nước và quốc tế biết đến như: Gốm sứ Bát tràng, lụa Vạn Phúc, sơn mài Hạ Thái, mây tre đan Phú Vinh, may áo dài Trạch Xá, dát vàng, bạc, quỳ Kiêu Kỵ, Khảm trai Chuyên Mỹ, Tò he Xuân La...
Bên cạnh nhiều kết quả đạt được công tác bảo tồn và phát triển làng nghề trên địa bàn Thành phố trong thời gian qua đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, phát triển thiếu bền vững. Trong đó, tình trạng ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề có xu hướng ngày càng nghiêm trọng; cơ sở hạ tầng, trang thiết bị công nghệ sản xuất lạc hậu, ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) và chuyển đổi số còn hạn chế; phát triển theo chuỗi giá trị sản phẩm ít cả về số lượng, chất lượng, thiếu tính bền vững.
Tình trạng ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề có xu hướng ngày càng nghiêm trọng.
Ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề ngày càng nghiệm trọng như: khí, bụi, tiếng ồn, nguồn nước, chất thải rắn... đặc biệt ở các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, cơ kim khí, chế biến lâm sản, dệt may... ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, phá hủy hệ sinh thái, cảnh quan nông thôn.
Theo báo cáo của Sở Tài Nguyên và Môi trường thành phố, hiện có 230/327 làng nghề được công nhận đã có phương án bảo vệ môi trường làng nghề được duyệt (chiếm tỷ lệ 70,33%), còn 97/327 làng nghề chưa được phê duyệt phương án bảo vệ môi trường (chiếm tỷ lệ 29,67%); có 18/25 cụm công nghiệp (CCN) đang hoạt động đã có trạm xử lý nước thải (XLNT) đạt tỷ lệ 72%, còn 7/25 CCN làng nghề đang hoạt động chưa có trạm XLNT theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường (trong đó: 04 CCN dự kiến chuyển đổi chức năng giai đoạn đến 2030, 01 CCN dự kiến chuyển đổi chức năng giai đoạn 2030-2050, 02 CCN đầu tư xây dựng trạm XLNT tại CCN giai đoạn 2) (chiếm tỷ lệ 28%).
Tỷ lệ làng nghề được công nhận trên địa bàn thành phố được đánh giá, phân loại theo quy định hiện hành là 48,92%.Kết quả đánh giá, phân loại mức độ ô nhiễm môi trường đối với các làng nghề được công nhận danh hiệu làng nghề, làng nghề truyền thống cho thấy, giai đoạn 2017 – 2020, Thành phố có 293 làng nghề bị ô nhiễm môi trường, trong đó có 139 làng nghề ô nhiễm nghiêm trọng (chiếm 47,5%), 91 làng nghề ô nhiễm (31%), 63 làng nghề được phân loại không ô nhiễm (21,5%).
Kết quả rà soát các năm 2022, 2023 cũng cho thấy có 168/318 làng nghề được công nhận bị ô nhiễm môi trường cần được xử lý. Đối với các làng nghề hiện bị ô nhiễm, Thành phố đã ban hành danh mục, lộ trình xử lý cụ thể gồm: Danh mục làng nghề ô nhiễm môi trường phải xử lý, lộ trình đến 2025, định hướng đến 2030 (60 làng nghề); Danh mục làng nghề ô nhiễm môi trường có dấu hiệu mai một cần xử lý, kết hợp phục hồi sản xuất, lộ trình đến năm 2025 (16 làng nghề); Danh mục làng nghề chưa có dấu hiệu ô nhiễm môi trường, cần tiếp tục kiểm soát chất lượng môi trường (40 làng nghề); Danh mục làng nghề mai một cần rà soát, đề xuất đưa ra khỏi danh mục làng nghề được công nhận danh hiệu làng nghề, làng nghề truyền thống (40 làng nghề).
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu về bảo vệ môi trường làng nghề còn chậm, một số chỉ tiêu chưa đạt được mục tiêu đề ra: Tỷ lệ làng nghề, làng nghề truyền thống được phê duyệt phương án bảo vệ môi trường hiện mới đạt 70,33%, vẫn còn 29,67% số làng nghề được công nhận nhưng chưa được phê duyệt phương án bảo vệ môi trường; có 18/25 cụm công nghiệp làngnghề đang hoạt động đã có trạm xử lý nước thải (XLNT) đạt tỷ lệ 72 %, trong khi còn 7/25 cụm công nghiệp làng nghề đang hoạt động (đạt tỷ lệ 28%) chưa có trạm XLNT theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường; công tác giá đánh giá, phân loại làng nghề được công nhận theo quy định hiện hành mới đạt tỷ lệ 48,92%.
Công tác đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường các làng nghề trên địa bàn các quận, huyện, thị xã chưa được quan tâm thực hiện; chi ngân sách hàng năm cho hoạt động bảo vệ môi trường còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu, tình hình thực tế, chưa đảm bảo tỷ lệ chi cho làng nghề/tổng chi về môi trường theo quy định; nhận thức của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề về vai trò của bảo vệ môi trường đối với sức khỏe cộng đồng, gìn giữ giá trị văn hóa, phát triển du lịch còn hạn chế; công tác di dời các hộ, cơ sở sản xuất tại các làng nghề vào các khu, CCN, CCN làng nghề gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với các làng nghề có hoạt động sản xuất gắn liền với nơi sinh sống, cư trú.
Nguyên nhân là do các cơ sở di dời phải nộp tiền thuê đất, đầu tư cơ sở vật chất với mức phí cao so với lợi nhuận thu được; trong 28/43CCN đã khởi công, có 21 CCN làng nghề, dự kiến hoàn thành xây dựng hạ tầng kỹ thuật và thu hút đầu tư năm 2025); đầu tư công nghệ, thiết bị máy móc cho sản xuất còn hạn chế, nhiều công đoạn sản xuất còn sản xuất thủ công, công nghệ lạc hậu làm gia tăng phát thải khí thải, nước thải ra môi trường.
Thành phố hỗ trợ phương án bảo vệ môi trường cho các làng nghề.
Với nhiều lợi thế trong phát triển làng nghề, đặc biệt hướng tới mục tiêu phát triển làng nghề theo hướng bền vững, TP.Hà Nội giữ vững quan điểm: Phát triển làng nghề phải gắn với thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu, phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, phát triển mô hình sản xuất tuần hoàn khép kín, tiết kiệm nguyên liệu, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; ứng dụng công nghệ số trong quản lý, quảng bá thương mại sản phẩm của làng nghề.
Tiếp tục duy trì 100% làng nghề, làng nghề truyền thống được công nhận đáp ứng được các điều kiện về bảo vệ môi trường làng nghề theo quy định của pháp luật hiện hành. Tầm nhìn đến năm 2050, phát triển làng nghề tiếp tục đóng góp vào phát triển kinh tế khu vực nông thôn, động lực cho phát triển ngành công nghiệp du lịch, dịch vụ, ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô.
Phát triển không gian làng nghề phát triển xanh, sạch, đẹp phù hợp với quy hoạch và định hướng phát triển đô thị hóahình thành mạng lưới làng nghề gắn với các Trung tâm đổi mới sáng tạo hiện đại, kết nối đồng bộ; sản xuất theo mô hình kinh tế xanh, bền vững, tuần hoàn, giảm phát thải được áp dụng đồng bộ tại các cụm công nghiệp làng nghề, làng nghề trên địa bàn Thủ đô.
Thời gian tới, TP.Hà Nội sẽ triển khai chính sách hỗ trợ máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến; xây dựng cơ chế đặc thù theo quy định của Luật Thủ đô để hỗ trợ chính sách hỗ trợ xử lý môi trường và xây dựng phương án bảo vệ môi trường làng nghề; logistic và công nghiệp phụ trợ; cơ chế đặc thù nhằm hỗ trợ các tác nhân làng nghề trong đầu tư áp dụng các công nghệ, thiết bị máy móc thủ công truyền thống thiết thực trong thực tiễn sản xuất nhưng không thuộc danh mục, hoặc chưa đáp ứng được quy định về điều kiện, tiêu chuẩn trong các chính sách của Nhà nước hỗ trợ về KHCN hiện nay.
Đẩy mạnh tuyên truyền, tập huấn, phổ biến pháp luật về môi trường. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường làng nghề, tăng cường năng lực cho các cán bộ làm công tác quản lý môi trường làng nghề cấp cơ sở. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho các cán bộ phụ trách môi trường tại các làng nghề để nâng cao trình độ nhận thức cũng như năng lực xử lý ô nhiễm do sản xuất gây ra. Triển khai thực hiện các nội dung quy hoạch đối với hệ thống nhà máy xử lý nước thải đầu mối, xử lý chất thải rắn theo Đồ án Điều chỉnh quy hoạch Thủ đô đến năm 2045, định hướng đến năm 2065 làm cơ sở đấu nối hệ thống nước thải, chất thải tại các làng nghề, CCN làng nghề tại các huyện.
Hỗ trợ phương án bảo vệ môi trường cho các làng có nghề đề nghị công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống và 97 làng nghề đã được Thành phố công nhận nhưng chưa có phương án theo kiến nghị của Sở Tài nguyên và Môi trường tại văn bản số 3290/BC-STNMT-CCBVMT ngày 02/5/2024. Triển khai thực hiện các nội dung bảo vệ môi trường làng nghề tại các Quyết định 2546/QĐ-UBND ngày 24/8/2023 của UBND thành phố Hà Nội về Ban hành danh mục, lộ trình và kế hoạch xử lý ô nhiễm môi trường đối với các làng nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 16/01/2024 của UBND Thành phố về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 2546/QĐ-UBND ngày 28/4/2023.
Cụ thể: 60 làng nghề ô nhiễm môi trường bắt buộc phải xử lý, lộ trình thực hiện đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030; 16 làng nghề ô nhiễm có dấu hiệu mai một phải xử lý ô nhiễm môi trường kết hợp khôi phục sản xuất; 44 làng nghề chưa có dấu hiệu ô nhiễm, cần tiếp tục kiểm soát chất lượng môi trường; 40 làng nghề mai một cần rà soát, đề xuất đưa ra khỏi "Danh sách công nhận danh hiệu làng nghề, làng nghề truyền thống” của UBND Thành phố.
UBND cấp quận/huyện/thị xã thực hiện công tác đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường đối với các làng nghề chưa được công nhận và chưa có phương án bảo vệ môi trường nằm trên địa bàn. Xây dựng kế hoạch, lộ trình đề nghị Thành phố hỗ trợ hoặc cân đối ngân sách cấp huyện để hộ trợ cho các làng nghề và phê duyệt phương án bảo vệ môi trường.
Hoàn thiện đầu tư trạm xử lý nước thải tập trung đối với 07/25 CCN làng nghề đang hoạt động chưa có trạm XLNT theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Đối với các CCN làng nghề mới thành lập, đang xây dựng cần đảm bảo 100% CCN có trạm XLNT tập trung theo quy định của Luật bảo vệ môi trường.
Đẩy nhanh đầu tư xây dựng các CCN làng nghề mới tại địa bàn các huyện Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai, Hoài Đức, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa, Phú Xuyên, Chương Mỹ, Thanh Trì, thị xã Sơn Tây và Quận Hà Đông nhằm đáp ứng nhu cầu diện tích mặt bằng sản xuất, hỗ trợ di dời cơ sở làng nghề ô nhiễm môi trường.
Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp, HTX, cơ sở ngành nghề nông thôn tại các làng nghề đầu tư công nghệ xử lý nước thải, chất thải tiên tiến, tuần hoàn, tiết kiệm diện tích, hạn chế tối đa ảnh hưởng đến cảnh quan và môi trường. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện di dời các cơ sở sản xuất của làng nghề trong khu dân cư có nguy cơ cao ô nhiễm môi trường vào các khu, CCN làng nghề đã quy hoạch, đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Huy động sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường.
Bích Hà
Bình luận