Hotline: 0941068156
Thứ hai, 24/11/2025 17:11
Thứ hai, 24/11/2025 11:11
TMO - Nguồn nước mùa cạn 2025-2026 trên lưu vực sông Cửu Long cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sản xuất nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ thiếu nước cục bộ do ảnh hưởng của tình hình xâm nhập mặn.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa công bố Kịch bản nguồn nước mùa cạn 2025-2026 trên lưu vực sông Cửu Long. Kịch bản được xây dựng trên cơ sở phân tích toàn diện hiện trạng, dự báo khí tượng - thủy văn, diễn biến nguồn nước, nhu cầu khai thác và yêu cầu bảo đảm an ninh nguồn nước của vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Thời kỳ đánh giá kéo dài từ tháng 11/2025 đến tháng 5/2026.
Đến cuối tháng 10/2025, lượng nước trữ trong các sông, kênh rạch nội đồng cao hơn so với các năm trước do mùa mưa kết thúc muộn, tạo điều kiện thuận lợi cho vụ Đông Xuân 2025-2026. Về nguồn nước dưới đất, dự báo từ tháng 11/2025 đến tháng 5/2026 cơ bản ổn định và đủ đáp ứng nhu cầu cấp nước. Tuy nhiên, mức độ đáp ứng có sự khác nhau giữa các khu vực.
Tại các tỉnh ven biển từ Vĩnh Long đến Cà Mau, một số công trình khai thác nước dưới đất có mực nước động dự báo gần ngưỡng giới hạn 35 m, như các trạm cấp nước ở Bạc Liêu và một số phường nội đô. Dù vẫn duy trì được tổng lưu lượng khai thác khoảng 33.900 m³/ngày đêm, các công trình này cần được theo dõi, giám sát chặt chẽ. Các giếng còn lại có mực nước động từ 25-30 m, đảm bảo duy trì hơn 43.900 m³/ngày đêm.
Tại Cần Thơ, Đồng Tháp và Tây Ninh, một số công trình cũng có mực nước động tiệm cận ngưỡng cho phép, như Nhà máy nước Bình Ảnh, Tân An hay cơ sở khai thác của doanh nghiệp thủy sản. Tổng lưu lượng duy trì khoảng 18.200 m³/ngày đêm. Phần lớn các công trình còn lại vẫn đảm bảo khai thác ổn định.

Nguồn nước trên lưu vực sông Cửu Long cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt trong mùa cạn tại các địa phương (Ảnh minh họa).
Dự báo xâm nhập mặn mùa cạn năm 2025 - 2026 vùng đồng bằng sông Cửu Long xấp xỉ trung bình nhiều năm (TBNN) và có khả năng thấp hơn mùa cạn năm 2024 - 2025. Xu thế mặn trên các sông nội đồng: Tại các vùng cửa sông chưa được khép kín bởi hệ thống thủy lợi, xâm nhập mặn với nồng độ từ 01 - 4g/l có thể vào sâu từ 50-60km trong các kỳ triều cường; tại các vùng xa nguồn nước ngọt như Cà Mau, xâm nhập mặn với nồng độ từ 4 - 8g/l vào sâu các kênh rạch nội đồng theo hướng các sông Ông Đốc, Gành Hào.
Hiện tại trên lưu vực có khoảng 1.933 công trình cấp nước tập trung với nhu cầu khai thác khoảng 3,02 triệu m3/ngày đêm. Khai thác nước dưới đất: có khoảng 1.445 công trình với tổng công suất khai thác là 1,02 triệu m3 /ngày đêm. Tổng nhu cầu sử dụng nước cho nông nghiệp gồm tưới, chăn nuôi, thủy sản từ tháng 11/2025-5/2026 trên lưu vực khoảng 24,5 tỷ m3. Trong đó, nhu cầu sử dụng nước nhiều nhất tập trung vào tháng 1, 2 tại các tỉnh Đồng Tháp, Tây Ninh...
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, về cơ bản lượng nước có thể khai thác đảm bảo đủ cho các nhu cầu sinh hoạt, an sinh xã hội; đảm bảo đầy đủ lượng nước cho các ngành kinh tế, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, vẫn có nguy cơ xảy ra thiếu nước cục bộ tại một số vùng trên lưu vực sông.
Do đó, để giảm thiểu nguy cơ có thể xảy ra thiếu nước, xâm nhập mặn, đặc biệt là ưu tiên đảm bảo cấp nước cho sinh hoạt trên lưu vực sông Cửu Long trong mọi tình huống, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị: Bộ Xây dựng và UBND cấp tỉnh trên lưu vực sông, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao, chỉ đạo việc chủ động lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước theo nhu cầu sử dụng nước bình thường của từng ngành, lĩnh vực và địa phương, kế hoạch lập trên nguyên tắc tiết kiệm nước, tránh thất thoát, lãng phí, dự phòng nguy cơ xảy ra thiếu nước trong các tháng cao điểm xâm nhập mặn.
Đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trên lưu vực sông Cửu Long cập nhật kịp thời các thông tin dự báo khí tượng thủy văn để có các biện pháp chủ động phòng chống xâm nhập mặn do tình hình xâm nhập mặn trên lưu vực sông Cửu Long phụ thuộc vào nguồn nước từ thượng nguồn sông Mê Công, triều cường, mưa trái mùa và các biến động bất thường về thời tiết.
Chỉ đạo rà soát, cải tạo hệ thống thủy lợi nhằm nâng cao khả năng lấy nước, tích trữ nước, đồng thời bảo đảm lưu thông của dòng chảy, không gây ứ đọng, ô nhiễm nguồn nước trong các hệ thống sông, kênh; rà soát, điều chỉnh việc vận hành hệ thống thủy lợi phù hợp với nhu cầu khai thác, sử dụng nước, diễn biến xâm nhập mặn Khẩn trương lập, điều chỉnh, công bố Danh mục: hồ, ao, đầm, phá không được san lấp; nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ trên địa bàn các tỉnh, thành phố; vùng cấm, hạn chế khai thác nước dưới đất.

Các địa phương cũng cần chủ động điều tiết nguồn nước để ứng phó với nguy cơ thiếu nước cục bộ do ảnh hưởng của xâm nhập mặn.
Đối với các vùng có nguy cơ xảy ra tình trạng thiếu nước cục bộ cấp cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trên lưu vực sông Cửu Long, đặc biệt là các tỉnh: Tây Ninh, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cà Mau: Chỉ đạo xây dựng kế hoạch ứng phó với từng trạng thái thiếu hụt của nguồn nước theo kịch bản nguồn nước được công bố Nghiên cứu giải pháp chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi, giảm diện tích gieo trồng phù hợp với khả năng đáp ứng của nguồn nước.
Nghiên cứu kết hợp hoặc luân phiên khai thác nước mặt với khai thác nước dưới đất, nước mưa; tăng cường việc tích trữ nước mưa để chủ động phòng tránh hạn hán, thiếu nước; có giải pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí nguồn nước,… Nghiên cứu, đầu tư xây dựng công trình tích trữ nước theo Kết luận 36 - KL/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ưu tiên xây dựng các công trình điều tiết, tích trữ nước ở vùng khan hiếm nước, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Khẩn trương, hoàn thiện các công trình điều tiết, trữ nước trong quy hoạch thủy lợi, quy hoạch về tài nguyên nước và các quy hoạch khác có liên quan. Rà soát và nhân rộng các mô hình tích trữ nước hiệu quả trong cộng đồng dân cư, đặc biệt ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Khuyến khích xã hội hóa đầu tư công trình cấp nước tập trung, trạm cấp nước xã - cụm xã, hồ chứa nhỏ và bể trữ nước mưa hộ gia đình (như khu vực miền núi Tri Tôn và Tịnh Biên, các xã đảo của tỉnh An Giang và vùng cù lao, ven biển); áp dụng công nghệ xử lý nước mặn - lợ, tái sử dụng nước thải sau xử lý.
Khẩn trương rà soát, công bố danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trên địa bàn các địa phương bao gồm: Tây Ninh, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang, Cà Mau theo quy định. Khẩn trương xây dựng, phê duyệt Kế hoạch bảo vệ nước dưới đất trên địa bàn các tỉnh, thành phố theo quy định.
Đối với các khu vực có nguy cơ sụt lún, ô nhiễm, nhiễm mặn nguồn nước dưới đất cần tăng cường giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng nước dưới đất để giảm thiểu nguy cơ suy thoái về số lượng, chất lượng nước dưới đất, đặc biệt tại các khu vực tập trung khai thác quy mô lớn gần ranh mặn của tầng chứa nước.../.
Ngọc Ánh
Bình luận