Hotline: 0941068156
Thứ bảy, 23/11/2024 18:11
Thứ ba, 02/01/2024 19:01
TMO – Giới chuyên gia đưa ra dự báo năm 2024 giá lúa gạo sẽ vẫn ở mức độ cao Tuy nhiên, Cục Trồng trọt khẳng định, khó có thể cao so với 2023, nhưng vẫn cao do nhu cầu tiêu thụ tăng trong khi sản lượng gạo trên thế giới không tăng nhiều.
Ngành Nông nghiệp thực hiện Kế hoạch năm 2023 trong điều kiện có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Tuy nhiên, với sự thống nhất từ nhận thức đến hành động và việc tổ chức thực hiện chuyển đổi mạnh từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế nông nghiệp, từ phát triển đơn ngành sang hợp tác, phát triển đa ngành; thúc đẩy tích hợp đa giá trị trong sản phẩm nông lâm thuỷ sản; chuyển từ chuỗi cung ứng nông sản sang phát triển các chuỗi ngành hàng theo đúng định hướng tại Nghị quyết "Tam nông" và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững;... toàn ngành đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Giá trị gia tăng toàn ngành (GDP) tăng cao, ước đạt 3,83%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 10 năm gần đây.
Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, một số tổ chức tài chính trên thế giới đưa ra dự báo giá lúa gạo sẽ vẫn ở mức độ cao trong năm 2024 và 2025. Tuy nhiên, khó có thể cao so với 2023, nhưng vẫn cao do nhu cầu tiêu thụ tăng trong khi sản lượng gạo trên thế giới không tăng nhiều. Theo Cục Trồng trọt, cả nước sẽ gieo trồng 7,1 triệu ha, trong đó đảm bảo sản lượng trên 43 triệu tấn. Do đó, vấn đề an ninh lương thực hoàn toàn được đảm bảo trong bất kỳ tình huống, hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo cũng phải phụ thuộc vào thị trường thế giới và năng lực của các doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo.
Sầu riêng là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ngành nông nghiệp.
Với mặt hàng rau quả, hiện nay sản xuất một số ngành hàng chủ lực cơ bản ổn định, tuy có bị ảnh hưởng của El Nino tại một số diện tích ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên. Năm 2024 dự báo El Nino ở mức độ không gay gắt so với các năm trước, bởi vậy hoàn toàn có thể chủ động đảm bảo được kế hoạch sản xuất và xuất khẩu. Năm 2024 sầu riêng vẫn là trái cây chủ lực trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam, tiếp đến là dừa, bưởi.
Theo giới chuyên gia, nông nghiệp tiếp tục khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, các cân đối lớn của nền kinh tế và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Sản lượng lúa năm nay đạt 43,4 triệu tấn, tăng 1,7% so với năm 2022, sản lượng thịt hơi các loại đạt 7,6 triệu tấn, tăng 3,5%; sản lượng thủy sản 9,3 triệu tấn, tăng 2,9%. Tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS đạt 53,01 tỷ USD, xuất siêu đạt mức kỷ lục 12,07 tỷ USD, tăng 43,7% chiếm trên 42,5% xuất siêu cả nước. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng cao kỷ lục như: Hàng rau quả đạt 5,69 tỷ USD, tăng 69,2%, gạo đạt 4,78 tỷ USD, tăng 38,4%.
Ngành nông nghiệp tổ chức thành công nhiều sự kiện lớn mang tầm quốc gia, quốc tế, qua đó giúp quảng bá hình ảnh, thương hiệu nông lâm thủy sản trong nước, khu vực và quốc tế, thúc đẩy tiêu thụ nông sản; nhất là việc phát động thực hiện Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030. Số lượng sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên tăng đều qua các tháng và đạt 11.000 sản phẩm, (tăng 2.189 sản phẩm so với năm 2022). Nhiều hoạt động tạo điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp quảng bá, tiêu thụ sản phẩm. Năm 2023 cả nước có khoảng 78% xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó, có 256 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Có 270 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới.
Năm 2024 dự báo nền kinh tế tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, để đạt được những mục tiêu đề ra, toàn ngành Nông nghiệp, nông thôn cần tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại theo hướng phát triển nông nghiệp sinh thái, hiện đại, kinh tế tuần hoàn; thực hiện chuyển mạnh từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; từ phát triển đơn ngành sang hợp tác, phát triển đa ngành; thúc đẩy tích hợp đa giá trị trong sản phẩm.
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, diện tích lúa cả năm 2023 ước đạt 7,12 triệu ha, tăng 10,1 nghìn ha so với năm trước; năng suất lúa ước đạt 61 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 43,5 triệu tấn, tăng 0,8 triệu tấn. Sản lượng lương thực có hạt năm 2023 đạt 47,9 triệu tấn, tăng 790 nghìn tấn so với năm 2022, trong đó sản lượng ngô đạt 4,4 triệu tấn, giảm 4,7 nghìn tấn. Diện tích gieo trồng lúa đông xuân năm 2023 ước đạt 2.952,5 nghìn ha, giảm 39,8 nghìn ha so với năm trước nhưng do năng suất đạt 68,4 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha nên sản lượng đạt 20,2 triệu tấn, tăng 213,3 nghìn tấn.
Diện tích gieo trồng lúa hè thu cả nước năm 2023 đạt 1.912,8 nghìn ha, giảm 2,8 nghìn ha so với vụ hè thu năm 2022; năng suất đạt 57,6 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha; sản lượng đạt 11 triệu tấn, tăng 181,5 nghìn tấn. Diện tích gieo trồng lúa thu đông năm nay ước đạt 708,8 nghìn ha, tăng 60,4 nghìn ha so với vụ thu đông năm trước; năng suất đạt 56,6 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha; sản lượng ước đạt 4 triệu tấn, tăng 392 nghìn tấn.
Vụ mùa năm nay cả nước gieo cấy được 1.545,3 nghìn ha, giảm 7,7 nghìn ha so với vụ mùa năm trước; năng suất ước đạt 53,2 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha; sản lượng ước đạt 8,23 triệu tấn, tương đương vụ mùa năm trước. Sản lượng ngô đạt 4,4 triệu tấn, giảm 0,1%; khoai lang đạt 914 nghìn tấn, giảm 62,5 nghìn tấn; đậu tương đạt 48,3 triệu tấn, giảm 3,8 nghìn tấn; lạc đạt 401,6 nghìn tấn, giảm 6,4 nghìn tấn; rau các loại đạt 19 triệu tấn, tăng 379,7 nghìn tấn.
Năm 2023, diện tích trồng cây lâu năm đạt 3.760,3 nghìn ha, tăng 1,1% so với năm 2022, trong đó nhóm cây công nghiệp đạt 2.161,4 nghìn ha, giảm 0,9%; nhóm cây ăn quả đạt 1.267,3 nghìn ha, tăng 4,1%. Trong nhóm cây công nghiệp, diện tích cao su đạt 908,9 nghìn ha, giảm 1,1% so với năm trước, sản lượng đạt 1.293,1 nghìn tấn, giảm 3,4%; cà phê diện tích đạt 715,8 nghìn ha, tăng 1%, sản lượng đạt 1.974,4 nghìn tấn, tăng 1%; chè diện tích đạt 122,6 nghìn ha, giảm 0,6%, sản lượng chè búp đạt 1.135,8 nghìn tấn, tăng 1,7%; điều diện tích đạt 301,1 nghìn ha, giảm 2,8%, sản lượng đạt 343,3 nghìn tấn, tăng 4,4%; hồ tiêu diện tích đạt 113 nghìn ha, giảm 5,5%, sản lượng đạt 252,2 nghìn tấn, giảm 7,3%.
Diện tích cho sản phẩm và sản lượng một số cây ăn quả như sau: Cam diện tích đạt 71,7 nghìn ha, giảm 5,9% so với năm trước, sản lượng đạt 1.798,3 nghìn tấn, tăng 1%; xoài diện tích đạt 93,8 nghìn ha, tăng 3%, sản lượng đạt 1.016,6 nghìn tấn, tăng 5,2%; sầu riêng diện tích đạt 76,6 nghìn ha, tăng 39%, sản lượng đạt 1.185,5 nghìn tấn, tăng 37,3%; nhãn diện tích đạt 69,9 nghìn ha, tăng 2,6%, sản lượng đạt 659,3 nghìn tấn, tăng 5,2%; vải diện tích đạt 52,2 nghìn ha, tăng 1,2%, sản lượng đạt 384,7 nghìn tấn, tăng 2,5%; thanh long diện tích đạt 50,1 nghìn ha, giảm 5,3%, sản lượng đạt 1.226,9 nghìn tấn, giảm 4,4%.
THIÊN LÝ
Bình luận