Hotline: 0941068156
Thứ hai, 25/11/2024 04:11
Thứ sáu, 11/11/2022 08:11
TMO – Nghị định 68 của Chính phủ quy định tỉ lệ lấp đầy cụm công nghiệp phải đạt hơn 50% mới được triển khai cụm công nghiệp khác trên cùng địa bàn. Trong khi đó, thời gian thực hiện các thủ tục dài, gây lãng phí cho doanh nghiệp. Nhiều ý kiến cho rằng nên cho phép nhà đầu tư làm cuốn chiếu để giảm lãng phí.
Theo Cục Công Thương địa phương, Bộ Công Thương, đến nay đã có 42 địa phương đã ban hành, thực hiện chính sách hỗ trợ cụm công nghiệp. Trong đó có 13 địa phương ban hành Chương trình/Nghị quyết hỗ trợ riêng đối với cụm công nghiệp giai đoạn đến năm 2025 (gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hòa Bình, Hà Nam, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Quảng Trị, Quảng Nam, Đắk Lắk, Đồng Nai, Bình Phước, Đồng Tháp và Bến Tre).
Các địa phương còn lại chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển cụm công nghiệp được lồng ghép trong các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp, khuyến công; các địa phương chưa ban hành chính sách phát triển cụm công nghiệp do hạn chế, khó khăn về nguồn thu ngân sách trên địa bàn.
(Ảnh minh hoạ)
Chính sách hỗ trợ cụm công nghiệp của các địa phương chủ yếu tập trung vào các nội dung, hạng mục hạ tầng thiết yếu của cụm công nghiệp để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất công nghiệp như: Quy hoạch chi tiết xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng, giao thông, xử lý nước thải tập trung, cấp điện, cấp thoát nước, di dời vào cụm công nghiệp. Tuy nhiên, do nguồn ngân sách địa phương còn hạn chế nên việc thực hiện hỗ trợ chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Hiện đang tồn tại 3 mô hình chủ đầu tư hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp, gồm: Doanh nghiệp làm chủ đầu tư; Đơn vị sự nghiệp công lập làm chủ đầu tư; UBND cấp huyện/cấp xã làm chủ đầu tư. Trong đó, cả nước có 508 cụm công nghiệp đã thành lập do doanh nghiệp làm chủ đầu tư; 481 cụm công nghiệp đã thành lập do đơn vị sự nghiệp công lập làm chủ đầu tư và 30 cụm công nghiệp đã thành lập do UBND cấp huyện/cấp xã làm chủ đầu tư.
Theo Cục Công Thương địa phương, về ưu điểm đây là mô hình phát huy hiệu quả cao nhất, phù hợp với chủ trương kêu gọi xã hội hóa đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế thị trường và giảm được gánh nặng ngân sách nhà nước; chủ đầu tư chủ động triển khai nhanh việc đầu tư xây dựng, hoàn thành, duy tu bảo dưỡng các công trình hạ tầng cụm công nghiệp, chủ động, nhanh chóng thu hút đầu tư vào cụm công nghiệp; thủ tục tiếp nhận, cho thuê đất đối với nhà đầu tư thứ cấp thuận lợi,...
Tuy nhiên, giá cho thuê mặt bằng các cụm công nghiệp này thường cao; chỉ thu hút được các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng các cụm công nghiệp có vị trí quy hoạch thuận lợi về giao thông, kết nối hạ tầng kỹ thuật bên ngoài, gần nguồn lao động.
Đối với các mô hình chủ đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp còn lại (đơn vị sự nghiệp công lập, UBND cấp huyện/cấp xã) có sự thuận lợi trong công tác chỉ đạo điều hành của cơ quan quản lý nhà nước, thường phù hợp ở những địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn khó thu hút doanh nghiệp làm chủ đầu tư, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp vì mục tiêu phát triển kinh tế địa phương nên giá cho thuê đối với các doanh nghiệp thứ cấp thấp. Mô hình này được đánh giá phù hợp thu hút các doanh nghiệp thứ cấp có tiềm lực tài chính hạn chế đầu tư sản xuất kinh doanh.
Nhiều ý kiến cho rằng Nghị định 68 quy định về tỉ lệ lấp đầy cụm công nghiệp đạt hơn 50% mới được triển khai cụm công nghiệp khác trên cùng địa bàn. Trong khi đó, thời gian thực hiện các thủ tục dài, gây lãng phí cho doanh nghiệp. Do đó, nên cho phép nhà đầu tư làm cuốn chiếu để giảm lãng phí. Mặt khác, những quy định về chuyển đổi đất rừng, đất lúa từ 10 ha trở lên hay đầu tư hạ tầng ngoài hàng rào cụm công nghiệp hay khu thiết chế để làm nhà ở cho công nhân cũng cần được “nới” hơn để thuận lợi cho nhà đầu tư.
Bộ Công Thương khẳng định Nghị định 68/2017, Nghị định 66/2020 của Chính phủ về quản lý và phát triển cụm công nghiệp đã góp phần thúc đẩy phát triển cụm công nghiệp, giúp công tác quản lý bài bản và hiệu quả hơn. Từ đó, tạo động lực cho phát triển ngành công nghiệp nói chung và tiểu thủ công nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, có 1 số nội dung phát sinh từ sự chồng chéo giữa các băn bản quy phạm pháp luật, thực tiễn và những tồn tại đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung 2 nghị định trên. Trong đó sẽ coi trọng yếu tố lựa chọn để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, cùng với đó tận dụng ưu thế địa phương, sử dụng hiệu quả cao nhất tài nguyên đất, trong đó ưu tiên thu hút các ngành nghề có hàm lượng công nghệ cao. Đây là hướng mới trong nội dung dự thảo nghị định thay thế Nghị định 66 và Nghị định 68.
Lê Hùng
Bình luận