Hotline: 0941068156
Thứ ba, 26/11/2024 12:11
Thứ năm, 07/09/2023 14:09
TMO – Trong 8 tháng của năm 2023, dịch vụ môi trường rừng đã đạt gần 60% kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, vẫn giảm 18% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), 8 tháng năm 2023, cả nước thu gần 2.000 tỷ đồng tiền dịch vụ môi trường rừng, đạt 59,8% kế hoạch năm. Nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng được đánh giá là nguồn tài chính quan trọng và bền vững của ngành lâm nghiệp, phục vụ đắc lực cho quản lý, bảo vệ rừng. Đồng thời, góp phần cải thiện sinh kế cho người làm nghề rừng, sống phụ thuộc vào rừng mà chủ yếu là đồng bào nghèo miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Theo Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam, quý III hàng năm mới là thời gian cao điểm thu tiền dịch môi trường rừng. Quý I và II lượng mưa sụt giảm đáng kể, nước về các hồ thủy điện ít đi, chính vì thiếu nước phát điện nên nguồn thu giảm. Sản lượng điện tiêu thụ của các địa phương cũng giảm nên tác động đến nguồn thu tiền dịch vụ môi trường rừng. Tuy nhiên, vẫn có thể hoàn thành mục tiêu đề ra trong năm 2023 là 3.200 tỷ đồng bởi có thêm nguồn thu dịch vụ môi trường rừng mới từ Thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA).
(Ảnh minh họa)
Đến nay, cả nước có 718 chủ rừng đang quản lý 7,65 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp; có 417 phương án quản lý rừng bền vững được phê duyệt, đạt 58% tổng số phương án cần phê duyệt; có 445.500 ha được cấp chứng chỉ rừng (rừng phòng hộ 38.565 ha, rừng trồng sản xuất 407.000 ha). Trong tháng 8, cả nước chuẩn bị được 49 triệu cây giống; trồng được 18.700 ha rừng, giảm 28,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1.838.800 m3, tăng 2,1%. Lũy kế 8 tháng, cả nước chuẩn bị trên 761,2 triệu cây giống; trồng được 151.800 ha rừng, giảm 3,3%; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 12.357.400 m3, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Bộ NN&PTNT cho biết trong thời gian tới, sẽ tiếp tục theo dõi, đôn đốc các địa phương chuẩn bị đủ cây giống, hiện trường để trồng rừng theo kế hoạch, chủ động kiểm soát chất lượng giống cây trồng lâm nghiệp. Đồng thời, tuyên truyền, cảnh báo nguy cơ cháy rừng; chỉ đạo, đôn đốc hệ thống kiểm lâm thực hiện các biện pháp phòng cháy chữa cháy rừng, bố trí lực lượng thường trực tại các vùng có nguy cơ cháy cao.
Theo quy định hiện hành, các đối tượng phải trả tiền dịch vụ môi trường rừng là các cơ sở sản xuất thủy điện; Cơ sở sản xuất và cung ứng nước sạch; Cơ sở sản xuất công nghiệp; Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; Các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh gây phát thải khí nhà kính lớn; Các cơ sở nuôi trồng thủy sản. Hiện tại, các loại dịch vụ môi trường rừng được quy định cụ thể như sau: Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối; Điều tiết, duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội; Hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng; Giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững, tăng trưởng xanh; Bảo vệ, duy trì vẻ đẹp cảnh quan tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng cho kinh doanh dịch vụ du lịch; Cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn, con giống tự nhiên, nguồn nước từ rừng và các yếu tố từ môi trường, hệ sinh thái rừng để nuôi trồng thủy sản.
Năm 2022, thu tiền dịch vụ môi trường rừng cả nước đạt trên 3.700 tỷ đồng, vượt 23% so với kế hoạch và tăng 17% so với năm 2021. Tiền dịch vụ môi trường rừng góp phần hỗ trợ công tác quản lý, bảo vệ cho 7,3 triệu ha rừng, chiếm 49,6% tổng diện tích rừng toàn quốc. Chi trả dịch vụ môi trường rừng là nguồn tài chính quan trọng và bền vững của ngành lâm nghiệp, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, bảo vệ rừng , đồng thời góp phần cải thiện sinh kế cho người làm nghề rừng, sống phụ thuộc vào rừng mà chủ yếu là đồng bào nghèo miền núi, vùng sâu, vùng xa.
BÙI HOÀNG
Bình luận