Hotline: 0941068156
Thứ sáu, 22/11/2024 21:11
Thứ ba, 11/06/2024 14:06
TMO - Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, với những vướng mắc hiện nay trong quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản, dự án Luật Địa chất và Khoáng sản sẽ tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch, tạo điều kiện cho địa phương phát triển và đảm bảo an ninh quốc gia.
Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, tính đến tháng 12/2023, cả nước có khoảng gần 4.000 khu vực khoáng sản đang được hơn 3.300 tổ chức, cá nhân khai thác với gần 50 loại khoáng sản khác nhau trên phạm vi cả nước, tập trung vào các loại tài nguyên, khoáng sản làm vật liệu xây dựng và vật liệu xây dựng thông thường như: đá, sét, cát, sỏi, than, đá vôi, đá sét làm nguyên liệu xi măng, đá hoa trắng, đá ốp lát…
Trong số gần 4.000 khu vực khoáng sản nêu trên, khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường chiếm gần 3.000 khu vực với tổng trữ lượng được phê duyệt năm 2023 là gần 500 triệu m3; sản lượng khai thác vào khoảng 143 triệu m3. Đối với tài nguyên, khoáng sản làm vật liệu, hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản này được triển khai thực hiện tại 44/63 tỉnh, thành phố trong cả nước với khoảng 1.720 mỏ, điểm mỏ theo các quy mô khác nhau.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp 369 Giấy phép thăm dò khoáng sản, trong đó, 322 Giấy phép cấp mới, 47 Giấy phép gia hạn/chuyển nhượng/điều chỉnh trên địa bàn 63 tỉnh/thành phố để thăm dò trên 6 loại nhóm khoáng sản/50 loại khoáng sản khác nhau; cấp 534 Giấy phép khai thác khoáng sản còn hiệu lực, gồm 51 loại khoáng sản. Hiện nay, có 3.393 Giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đang có hiệu lực.
Tài nguyên địa chất, khoáng sản là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước do vậy cần được quản lý, khai thác hiệu quả.
Tính đến ngày 31/12/2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương đã phê duyệt tiền cấp quyền khai thác khoáng sản trên 61.441 tỷ đồng. Về thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, từ năm 2014 đến 31/12/2023, tổng số tiền thu được là 55.887 tỷ đồng. Đến hết tháng 12/2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh đã triển khai đấu giá quyền khai thác khoáng sản đối với 837 khu vực khoáng sản, kết quả đấu giá tăng trung bình từ 20 - 40% so với giá khởi điểm. Số liệu thống kê cho thấy các mỏ đấu giá thành công chủ yếu là mỏ cát, sỏi chiếm 68,75%; đá làm vật liệu xây dựng thông thường chiếm 15,79%; sét, sét gạch ngói chiếm 5,59%.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh, sau 13 năm thi hành Luật Khoáng sản năm 2010, hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản cơ bản đầy đủ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về khoáng sản; đẩy mạnh điều tra địa chất về khoáng sản và công nghiệp khai khoáng; quản lý khoáng sản ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn. Nhiều chính sách quan trọng vẫn còn nguyên giá trị và được tiếp tục kế thừa.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi Luật vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như Luật Khoáng sản chưa quy định quản lý Nhà nước về địa chất, nhất là quản lý thống nhất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành; đặc biệt chưa thống nhất quản lý thông tin, dữ liệu địa chất như Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị đã nêu. Thủ tục hành chính cấp phép về khoáng sản làm vật liệu san lấp còn phức tạp; chưa phân loại các đối tượng khoáng sản để áp dụng thủ tục hành chính tương ứng, phù hợp. Việc thu tiền cấp quyền khai thác theo trữ lượng khoáng sản còn gặp nhiều bất cập. Do đó, việc hoàn thiện Luật Địa chất và Khoáng sản được cho là quan trọng để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động khai thác, bảo vệ địa chất, khoáng sản ở nước ta.
Dự án Luật Địa chất và Khoáng sản được xây dựng gồm 117 điều, bố cục thành 12 chương, tăng 1 chương và 31 điều (so với Luật Khoáng sản năm 2010). Dự án Luật có các quy định mới như: Điều tra cơ bản địa chất; phân nhóm khoáng sản; tăng cường phân công, phân cấp cho chính quyền địa phương; bổ sung và làm rõ các hoạt động thu hồi khoáng sản, đăng ký khai thác khoáng sản nhóm IV không phải cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản; bổ sung các trường hợp đặc thù cho phép khai thác khoáng sản không phải có Quy hoạch khoáng sản (khai thác khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ; thu hồi khoáng sản; khai thác tận thu khoáng sản); công nhận kết quả thăm dò khoáng sản thay vì phê duyệt trữ lượng; sử dụng vốn ngân sách từ nguồn sự nghiệp kinh tế để tổ chức thực hiện thăm dò khoáng sản chiến lược, quan trọng;...
Dự án Luật cũng quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xác định trên cơ sở trữ lượng khoáng sản được quy định trong giấy phép khai thác khoáng sản hoặc khối lượng khoáng sản được phép khai thác, thu hồi; tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu theo năm và quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế; tăng cường quản lý cát, sỏi lòng sông, lòng hồ, khu vực biển; cho phép tổ chức, cá nhân thế chấp, góp vốn quyền khai thác khoáng sản; ưu tiên tổ chức, cá nhân đang khai thác hợp pháp được thăm dò xuống sâu, mở rộng để đánh giá đầy đủ, khống chế hết thân khoáng sản đối với loại khoáng sản được cấp phép mà không phải đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
Dự án Luật Địa chất và Khoáng sản hoàn thiện sẽ tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất cho hoạt động quản lý, khai thác nguồn tài nguyên trên.
Dự thảo Luật đã kế thừa những chính sách, quy định của Luật Khoáng sản hiện hành đang được áp dụng hiệu quả trong thực tiễn, gồm các nội dung: Chính sách của Nhà nước về địa chất và khoáng sản; điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; thăm dò, khai thác khoáng sản, đóng cửa mỏ khoáng sản; công cụ kinh tế, tài chính trong hoạt động khoáng sản; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thăm dò, khai thác khoáng sản. Đồng thời, đã sửa đổi một số chính sách, quy định để tháo gỡ bất cập, vướng mắc liên quan đến quyền của tổ chức, cá nhân được tuyển chọn tham gia đầu tư điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; thủ tục hành chính, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thăm dò, khai thác khoáng sản, đóng cửa mỏ khoáng sản...
Công tác cải cách thủ tục hành chính trong thủ tục cấp phép cũng được quy định trong Dự thảo Luật. Cụ thể, tiếp tục duy trì việc phân cấp quản lý nhà nước về khoáng sản như Luật Khoáng sản hiện hành, theo đó, UBND cấp tỉnh cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm III, IV; giấy phép khai thác tận thu khoáng sản nhóm I, II và III; giấy phép khai thác khoáng sản nhóm I và II tại các khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ đã được Bộ TN&MT khoanh định và công bố.
Ngoài ra, bổ sung việc phân cấp cho UBND cấp tỉnh đối với các nội dung: Phê duyệt đề án, báo cáo kết quả điều tra cơ bản địa chất, điều tra địa chất về khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND tỉnh và được thực hiện bằng nguồn vốn ngân sách của địa phương; quyết định việc cho phép thu hồi khoáng sản nhóm I, II khi thực hiện dự án đầu tư tại khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia.
Về cải cách thủ tục hành chính, Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản có 23 thủ tục. Trong số này, 18 thủ tục được kế thừa từ hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản hiện hành, 5 thủ tục mới (bao gồm điều chỉnh giấy phép thăm dò; cấp lại giấy phép thăm dò; điều chỉnh giấy phép khai thác; cấp lại giấy phép khai thác; điều chỉnh đề án đóng cửa mỏ) nhằm giải quyết các yêu cầu thực tiễn trong công tác quản lý và để tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản...
Tài nguyên địa chất, khoáng sản là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời là nguồn dự trữ lâu dài của quốc gia cần phải được quy hoạch, điều tra, thăm dò đầy đủ; quản lý tập trung, thống nhất. Do đó, việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên này phải được thực hiện hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước bền vững trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.
Đức Dũng
Bình luận