Hotline: 0941068156
Thứ hai, 25/11/2024 22:11
Thứ hai, 08/05/2023 20:05
TMO – Riêng tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, diện tích lúa đã thu hoạch 1.417,3 nghìn ha, tăng 3,2% với năng suất thu hoạch đạt 72,1 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha; sản lượng thu hoạch đạt khoảng 10,2 triệu tấn, tăng 5,1%.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), lũy kế đến trung tuần tháng 4, cả nước gieo cấy được gần 3.463,7 nghìn ha lúa, giảm 1% so với cùng kỳ năm trước; đã thu hoạch đạt 1.847,7 nghìn ha, tăng 2,1% với năng suất bình quân đạt 68,4 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha; sản lượng thu hoạch đạt 12,63 triệu tấn, tăng 3,5%.
Cụ thể, về lúa Đông Xuân, cả nước gieo cấy 2.949,7 nghìn ha, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước; thu hoạch 1.570 nghìn ha, tăng 3,0% so với cùng kỳ năm trước; năng suất thu hoạch ước đạt 71,2 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha. Sản lượng đã thu hoạch đạt 11,2 triệu tấn, tăng 4,7%. Riêng tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch 1.417,3 nghìn ha, tăng 3,2% với năng suất thu hoạch đạt 72,1 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha; sản lượng thu hoạch đạt khoảng 10,2 triệu tấn, tăng 5,1%.
Ảnh minh họa
Với lúa Hè Thu, các tỉnh phía Nam gieo cấy 514 nghìn ha, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy đạt 508,2 nghìn ha, tăng 2,2%. Diện tích gieo cấy tăng do thời tiết thuận lợi, ít bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn, các địa phương điều chỉnh lịch thời vụ để tránh hạn.
Bộ NN&PTNT đề nghị các địa phương tiếp tục theo dõi sát tình hình thời tiết khí tượng, thủy văn để chỉ đạo thời vụ, cơ cấu cây trồng phù hợp. Xây dựng kế hoạch sản xuất cụ thể, đặc biệt kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa. Tính toán kỹ thời vụ các loại giống cây trồng để có kế hoạch chuyển đổi những diện tích không đủ nước cho việc gieo cấy lúa sang gieo trồng các cây rau màu khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Ngoài ra, cần tăng cường công tác bảo vệ thực vật, tổ chức trực ban chỉ đạo công tác phòng chống dịch và kịp thời xử lý các vùng dịch phát sinh; đặc biệt lưu ý các sinh vật gây hại trên lúa.
Theo thống kê từ Bộ Công Thương, trong quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt hơn 1,85 triệu tấn với trị giá 981 triệu USD, tăng 23,4% về lượng và tăng 34,3% về kim ngạch so cùng kỳ năm 2022. Giá xuất khẩu bình quân đạt 529 USD/tấn, tăng 8,8% so mức bình quân cùng kỳ năm 2022. Về thị trường xuất khẩu, châu Á tiếp tục là thị trường khu vực xuất khẩu lớn nhất trong quý I, đạt gần 1,57 triệu tấn, chiếm hơn 84,7% tổng lượng xuất khẩu, tăng 52,2% so cùng kỳ năm 2022. Châu Phi tiếp tục là thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ 2, kế tiếp là khu vực thị trường châu Âu.
Với những kết quả thống kê trên, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) cho biết, tình hình xuất khẩu gạo trong quý I/2023 đang đi đúng định hướng. Chủng loại gạo trắng thường vẫn chiếm tỷ trọng ổn định, gạo thơm và gạo nếp ngày càng gia tăng trị giá xuất khẩu. Ngoài ra, xuất khẩu gạo hữu cơ và gạo tăng cường vi chất dinh dưỡng tuy chiếm tỷ lệ còn khiêm tốn, nhưng đã làm đa dạng chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam, và khẳng định được giá trị hạt gạo xuất khẩu.
Thiên Lý
Bình luận