Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 09/03/2025 20:03
Thứ năm, 06/03/2025 10:03
TMO - Quá trình triển khai Đề án “Điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1/50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững kinh tế xã hội” các đơn vị nghiên cứu đã phát hiện và đánh giá tài nguyên 110 mỏ thuộc 25 loại khoáng sản quan trọng.
Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, Đề án “Điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1/50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững kinh tế xã hội” triển khai từ năm 2018. Phạm vi thực hiện đề án gồm toàn bộ vùng Tây Bắc với diện tích 109.250 km, gồm 12 tỉnh (Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang) và 21 huyện phía Tây của các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.
Sau hơn 7 năm triển khai, các đơn vị địa chất thuộc Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (nay là Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam) cùng với các đơn vị phối hợp ở trong nước và quốc tế, đã hoàn thành công tác đo vẽ lập bản đồ địa chất, điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 vùng Tây Bắc đồng thời làm rõ tiềm năng tài nguyên các loại khoáng sản, các tài nguyên địa chất khác.
Cụ thể, các đơn vị thực hiện đã phát hiện và đánh giá tài nguyên 110 mỏ thuộc 25 loại khoáng sản quan trọng thuộc nhóm khoáng sản làm nhiên liệu, năng lượng, vật liệu xây dựng. Trong đó có 17 mỏ lớn (5 mỏ khoáng sản kim loại, 10 mỏ khoáng chất công nghiệp, 2 mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng), 43 mỏ trung bình và 50 mỏ nhỏ. Trên cơ sở đó, các đơn vị đã đề xuất chuyển giao thăm dò 96 mỏ (17 mỏ lớn, 42 mỏ trung bình, 37 mỏ nhỏ) với 172 vị trí (đã chuyển giao 62 vị trí để đưa vào 2 Quy hoạch thăm dò khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050).
Cùng với đó, các đơn vị cũng đã khoanh định, dự báo 7 khu vực có triển vọng khoáng sản ẩn sâu; khoanh định được 15 diện tích phân bố các đá magma có tiềm năng đất hiếm hấp phụ ion trong vỏ phong hóa đề xuất đưa vào đề án điều tra tổng thể quặng đất hiếm toàn quốc; dự báo 6 khu vực có tiềm năng lớn về khoáng chất công nghiệp và vật liệu xây dựng để đầu tư điều tra, đánh giá tiếp theo.
Kết quả quan trọng của Đề án là đã tổng hợp, đo vẽ bổ sung, thành lập bản đồ địa chất, khoáng sản tỉ lệ 1:250.000 toàn khu vực Bắc Bộ và tỉnh Nghệ An, gồm 11 mảnh theo danh pháp, đã thu thập 14 bộ mẫu địa chất khoáng sản kèm bản đồ địa chất khoáng sản từng tỉnh và được bàn giao cho các tỉnh; đồng thời nâng cao năng lực công tác điều tra địa chất, đánh giá tiềm năng khoáng sản, phân tích mẫu, địa vật lý và ứng dụng công nghệ thông tin; đào tạo được đội ngũ cán bộ chủ nhiệm đề án có năng lực chuyên môn, có kinh nghiệm trong quản lý, tổ chức thực hiện đề án và một số cán bộ trẻ có năng lực chuyên môn về điều tra, đánh giá các loại khoáng sản tại các Liên đoàn.
110 mỏ thuộc 25 loại khoáng sản được phát hiện tại vùng Tây Bắc.
Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho biết đến tháng 2/2025, cơ quan quản lý Nhà nước đã phê duyệt 26 báo cáo kết quả 26 đề án thành phần đồng thời đã lập Hội đồng thẩm định báo cáo kết quả tổng thể đề án. Hiện báo cáo đang được gửi lấy ý kiến thẩm định ủy viên phản biện và các ủy viên hội đồng trước khi tổ chức họp hội đồng.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị đơn vị tổ chức công bố kết quả của đề án và chuyển giao cho các địa phương một số kết quả gồm: Thống kê kết quả điều tra hiện trạng 1.305 mỏ (tên mỏ, vị trí, địa danh, mức độ điều tra, trữ lượng và tài nguyên còn lại); thống kê những thông tin cơ bản kết quả 110 mỏ đã đánh giá đề nghị chuyển giao thăm dò (tên mỏ, diện tích, địa danh, tài nguyên cấp 333, 334a);...
Thông tin từ Cục Khoáng sản Việt Nam, tính đến hết năm 2023 cả nước có khoảng gần 4.000 khu vực được hơn 3.300 tổ chức, cá nhân đang khai thác với gần 50 loại khoáng sản khác nhau trên phạm vi cả nước, tập trung vào các loại khoáng sản như đá, sét, cát, sỏi làm vật liệu xây dựng thông thường (VLXDTT), than, đá vôi, đá sét làm nguyên liệu xi măng, đá hoa trắng, đá ốp lát…
Trong đó, có gần 3.000 khu vực khoáng sản làm VLXDTT phần lớn ở quy mô nhỏ và khoảng 1.000 khu vực khai thác khoáng sản quy mô công nghiệp đang hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản theo 9.164 Giấy phép (3.523 Giấy phép thăm dò và 5.641 Giấy phép khai thác khoáng sản) do cơ quan Trung ương và các địa phương cấp phép.
Số lượng giấy phép đối với khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) là 810 giấy phép, gồm: 369 Giấy phép thăm dò khoáng sản; 441 Giấy phép khai thác khoáng sản và số lượng giấy phép đối với khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND tỉnh là 8.354 giấy phép, gồm: 3.154 Giấy phép thăm dò khoáng sản; 5.200 Giấy phép khai thác khoáng sản. số lượng tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản trên địa bàn các tỉnh, thành phố phù hợp với phân bố khoáng sản chung của cả nước.
Tài nguyên địa chất, khoáng sản không những là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là nguồn dự trữ lâu dài của quốc gia cần phải được quy hoạch, điều tra, thăm dò đầy đủ; quản lý tập trung, thống nhất; khai thác, sử dụng bền vững, tiết kiệm, hiệu quả đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài. Năm 2024, Luật Địa chất và khoáng sản đã được Quốc hội thông qua, đánh dấu một bước tiến lớn trong công tác quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên khoáng sản.
Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 đã tạo ra cơ sở pháp lý rõ ràng, giúp phân cấp mạnh cho địa phương cấp tỉnh, đồng thời quy định rõ trách nhiệm gắn với thẩm quyền của từng chủ thể quản lý. Chính phủ cũng sẽ quy định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền cho ý kiến đối với từng loại dự án để bảo đảm chủ trương đổi mới trong xây dựng pháp luật. Việc quản lý tài nguyên khoáng sản được phân cấp cho các địa phương theo quy định trong Luật cũng làm cho hoạt động khai thác khoáng sản không chỉ thuận lợi cho việc đáp ứng nhu cầu nguyên liệu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương mà còn đảm bảo khai thác tận thu nguồn tài nguyên quy mô nhỏ, tránh việc khai thác thổ phỉ, góp phần tăng thu cho ngân sách và phát triển kinh tế, bảo vệ tài nguyên và môi trường của địa phương nói riêng và của quốc gia nói chung.
Đồng thời, Luật cũng tăng cường công tác bảo vệ môi trường, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản và cộng đồng dân cư nơi có hoạt động khoáng sản. Nhờ đó, địa phương có thể tận dụng nguồn lực tài nguyên khoáng sản một cách hiệu quả, đảm bảo cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội, đúng quy định pháp luật./.
Đức Thuận
Bình luận