Hotline: 0941068156
Thứ tư, 27/11/2024 22:11
Chủ nhật, 18/08/2024 08:08
TMO - Khoáng sản đi kèm luôn xuất hiện ở các mỏ, song công tác đánh giá trữ lượng chỉ với các khoáng sản và thành phần đi kèm có ích (khoáng sản và thành phần đi kèm có khả năng thu hồi và có hiệu quả kinh tế khi khai thác khoáng sản chính). Trong thăm dò khi chưa có nhu cầu sử dụng thì chưa cần nghiên cứu, đánh giá trữ lượng.
Các văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản đã quy định về công tác thăm dò và đánh giá trữ lượng, tài nguyên các loại khoáng sản, trong đó có khoáng sản có ích đi kèm trong diện tích thăm dò. Theo các chuyên gia, thực tế thăm dò khoáng sản cho thấy hầu hết các mỏ khoáng sản là mỏ khoáng sản tổng hợp (mỏ có từ 1 đến 2 khoáng sản, hoặc có một số thành phần đi kèm có thể thu hồi có hiệu quả). Thông thường khi lập đề án thăm dò đã xác định đối tượng khoáng sản chính và các khoáng sản có ích đi kèm như các mỏ chì - kẽm, mỏ thiếc - volfram gốc, mỏ volfram đa kim, mỏ đồng - niken, mỏ vàng, mỏ đất hiếm… và các báo cáo kết quả thăm dò đã tính được trữ lượng, tài nguyên các khoáng sản chính, khoáng sản và thành phần có ích đi kèm ở mỏ.
(Ảnh minh họa)
Theo TS. Đặng Văn Lãm, nguyên Chánh Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia, trong thực tế cũng có một số mỏ khi thăm dò chưa nghiên cứu đánh giá trữ lượng các khoáng sản đi kèm. Sau khi được cấp phép khai thác mới xuất hiện nhu cầu sử dụng các khoáng sản đi kèm và khi đó phải đề nghị được nghiên cứu bổ sung và đánh giá trữ lượng các khoáng sản có ích đi kèm để được phép sử dụng. Đơn cử, các mỏ đá vôi nguyên liệu xi măng ở một số khu vực trước đây khi thăm dò xác định không sử dụng đá vôi phi nguyên liệu (các lớp kẹp đá vôi sét, sét vôi, đá vôi dolomit…) nên không đánh giá trữ lượng, sau này khi có nhu cầu sử dụng chúng làm nguyên liệu phối trộn, làm phụ gia, làm vật liệu xây dựng… phải đề nghị được nghiên cứu bổ sung và công nhận trữ lượng.
Ngoài ra, một số mỏ cao lanh ở khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên đã đề nghị nghiên cứu bổ sung và công nhận trữ lượng cát xây dựng đi kèm sau khi thu hồi cao lanh; một số mỏ sa khoáng titan-zircon ven biển cũng đã đề nghị đánh giá bổ sung trữ lượng cát công nghiệp, đất san lấp… Bên cạnh đó, tại các quyết định hoặc Thông tư quy định về thăm dò và phân cấp trữ lượng, tài nguyên các khoáng sản riêng biệt có điều khoản yêu cầu về đánh giá các khoáng sản và thành phần có ích đi kèm nhưng còn chung chung, chưa chi tiết. Đồng thời, vẫn còn những bất cập liên quan đến trữ lượng và tài nguyên, cần được nghiên cứu bổ sung trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Quy định về phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn của Việt Nam ban hành tại Thông tư 60/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiếp cận phân cấp khung của Liên hợp quốc về trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn. Trong đó xác định rõ các khái niệm: Tài nguyên khoáng sản rắn, tài nguyên khoáng sản rắn xác định, tài nguyên khoáng sản rắn dự báo và trữ lượng khoáng sản rắn. Việc phân cấp trữ lượng và tài nguyên theo 3 trục có tính khoa học và áp dụng trong thực tế không có vướng mắc lớn, và hiện nay cơ sở dữ liệu thống kê trữ lượng và tài nguyên khoáng sản của cả nước đã được chuyển đổi theo hệ thống này không nên có thay đổi lớn. Tuy nhiên, phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn còn một số bất cập và ban hành ở dạng thông tư chưa tương xứng với vị trí, vai trò của nó trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản, đề nghị tiếp tục nghiên cứu bổ sung.
Cũng theo các chuyên gia, trong các văn bản quy phạm pháp luật cao hơn còn có một số thuật ngữ về trữ lượng và tài nguyên chưa thống nhất như: Trữ lượng địa chất, trữ lượng khai thác, trữ lượng được phép đưa vào thiết kế khai thác, trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tài nguyên dự tính…, chưa thống nhất với hệ thống phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn. Đối với khoáng sản đi kèm, thuật ngữ này hiện chưa được xác định rõ. Các khoáng sản đi kèm luôn xuất hiện ở các mỏ, song công tác đánh giá trữ lượng chỉ với các khoáng sản và thành phần đi kèm có ích (khoáng sản và thành phần đi kèm có khả năng thu hồi và có hiệu quả kinh tế khi khai thác khoáng sản chính). Trong thăm dò khi chưa có nhu cầu sử dụng thì chưa cần nghiên cứu, đánh giá trữ lượng; tuy nhiên khi thăm dò khoáng sản chính cần kết hợp nghiên cứu đánh giá sự có mặt và sơ bộ đánh giá khả năng thu hồi sử dụng các khoáng sản có ích đi kèm.
Hiện tại trong một số văn bản hướng dẫn công tác thăm dò, phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản riêng biệt có nêu yêu cầu về đánh giá trữ lượng các khoáng sản và thành phần có ích đi kèm, chưa có thông tư quy định về mức độ nghiên cứu và đánh giá trữ lượng các khoáng sản và thành phần có ích đi kèm, đây cũng là hạn chế. Do đó, để hạn chế những bất cập trong công tác thăm dò, thẩm định, công nhận trữ lượng khoáng sản có ích đi kèm, cần nghiên cứu sửa đổi bổ sung trong quy định của pháp luật về khoáng sản.
Khoáng sản đi kèm là loại khoáng sản khác, nằm trong khu vực khai thác, thu hồi được khi khai thác khoáng sản chính đã xác định trong Giấy phép khai thác khoáng sản, kể cả khoáng sản khác ở bãi thải của mỏ đang hoạt động mà tại thời điểm đó xác định việc khai thác, sử dụng loại khoáng sản này có hiệu quả kinh tế.
HẢI YẾN
Bình luận