Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 03:11
Thứ bảy, 14/10/2023 07:10
TMO - Mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia đối mặt với nhiều thách thức; các nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu dẫn đến phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn.
Ngày 4/8/2022 và ngày 29/8/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã ban hành các Nghị quyết số 23/2022/UBTVQH15 về Chương trình giám sát của UBTVQH năm 2023 và số 582/NQ-UBTVQH15 về thành lập Đoàn giám sát "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021" nhằm đánh giá khách quan, trung thực, đầy đủ và toàn diện việc Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan liên quan thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021 và các giai đoạn trước, sau có liên quan, làm rõ những hạn chế, bất cập, nguyên nhân khách quan, chủ quan, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, làm tiền đề quan trọng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh.
Trong giai đoạn 2016-2021, Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành 4 nghị quyết, 2 kết luận nhằm định hướng phát triển ngành năng lượng, đáp ứng đồng bộ các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội-môi trường, quốc phòng-an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế. Để thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, các cơ quan Nhà nước ở Trung ương đã ban hành 499 văn bản quy phạm pháp luật. HĐND, UBND cấp tỉnh đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chương trình, kế hoạch, đề án, nhiệm vụ triển khai trên địa bàn. Công tác quy hoạch đã được quan tâm, chú trọng, đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và quy hoạch phát triển các phân ngành năng lượng than, điện, khí, xăng dầu.
Việc hoàn thiện hành lang pháp lý về phát triển năng lượng đã góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng-an ninh, nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của nhân dân, tạo tiền đề quan trọng để phát triển các ngành, lĩnh vực khác; bảo tồn, phát triển, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn năng lượng; bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, thu hút nguồn lực đầu tư; chuyển đổi năng lượng công bằng.
Ngành điện trong giai đoạn 2016-2021 đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Việc triển khai quy hoạch các phân ngành năng lượng, nhất là Quy hoạch điện VII, Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã đạt được kết quả nhất định. Quy hoạch điện VIII tuy mới được phê duyệt nhưng đã được chú trọng, nỗ lực triển khai kịp thời. Sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống hàng năm đều tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo cung cấp điện cơ bản đầy đủ; hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định. Ngành than đã thực hiện tốt mục tiêu đảm bảo đáp ứng đủ than cho nhu cầu sử dụng trong nước, đặc biệt là than cho sản xuất điện, góp phần đảm bảo năng lượng quốc gia....
Ngành điện trong giai đoạn 2016-2021 đã đạt được nhiều kết quả, tuy nhiên nguy cơ thiếu điện được nhấn mạnh nếu không có các giải pháp kịp thời.
Báo cáo giám sát chuyên đề về phát triển năng lượng 2016-2021 của Đoàn giám sát của UBTVQH cho thấy, sản lượng điện sản xuất hàng năm tăng, năm sau cao hơn năm trước và hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định. Chẳng hạn, năm 2020, tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu đạt 247 tỷ kWh, tăng 1,5 lần so với năm 2015 (163,8 tỷ kWh). Điện thương phẩm tiêu thụ cũng tăng 1,5 lần so với 2015, đạt gần 217 tỷ kWh. Với mức này, sản lượng điện thương phẩm bình quân đầu người tăng 1,42 lần trong 5 năm.
Tuy nhiên, đoàn giám sát của UBTVQH chỉ ra nhiều tồn tại trong phát triển năng lượng khiến mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia đối mặt nhiều thách thức. Nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu dẫn đến phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn. Tài nguyên năng lượng sơ cấp Việt Nam ngày càng cạn kiệt khi thủy điện cơ bản đã khai thác hết; sản lượng dầu và khí ở một số mỏ lớn suy giảm nhanh.
Cung và cầu năng lượng trong nước mất cân đối, nguồn phát điện giữa các vùng và một số dự án nguồn điện chậm vận hành (Na Dương II, Quỳnh Lập I, Cẩm Phả III; chuỗi dự án khí - điện Cá Voi Xanh, LNG Thị Vải, LNG Sơn Mỹ) hoặc dừng triển khai. Những tồn tại này dẫn tới tình trạng thiếu điện trong tháng 5,6 ở miền Bắc. Tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB) tại báo cáo công bố hồi tháng 8, Việt Nam thiệt hại khoảng 1,4 tỷ USD do thiếu điện, tương đương khoảng 0,3% GDP.
Nguy cơ thiếu điện, theo đoàn giám sát, còn có thể kéo dài trong ngắn - trung và dài hạn tới 2050. Trong khi đó, theo các chuyên gia, miền Bắc có nguy cơ tiếp tục thiếu điện khi hai năm tới chưa có nguồn mới nào được bổ sung, vận hành. Nguy cơ thiếu điện tái diễn, nhất là vào 2024-2025 cũng được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nêu trong một báo cáo gửi Bộ Công Thương gần đây. Dự báo năm 2024 cơ bản đủ điện, nhưng năm 2025 miền Bắc có thể thiếu trên 3.630 MW và sản lượng khoảng 6,8 tỷ kWh trong cao điểm mùa khô (tháng 5-7) do các nguồn điện mới vào vận hành rất ít, chủ yếu rơi vào thời điểm cuối năm.
Đoàn Giám sát của UBTVQH nhận định: Chỉ tiêu chủ yếu đánh giá đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia biến động theo chiều hướng bất lợi. Đơn vị giám sát cho biết có 6 chỉ tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, gồm: Tỷ số trữ lượng và sản xuất của than, dầu thô và khí được quy đổi; sự phụ thuộc vào nhập khẩu than, dầu và khí đốt tự nhiên; tỷ trọng chi phí nhập khẩu trên tổng thu nhập quốc nội; đa dạng hóa nguồn nhập khẩu; đa dạng hóa cơ cấu dữ liệu để phát điện; cường độ năng lượng sơ cấp.
Nhưng trong số này, có đến 3 chỉ tiêu đang biến động theo chiều hướng bất lợi. Cụ thể, tỷ số trữ lượng và sản xuất của than, dầu thô và khí đốt tự nhiên ngày càng giảm khi than còn khoảng 70 năm, dầu thô còn 20 năm, khí tự nhiên còn 40 năm. Xu hướng phụ thuộc vào nhập khẩu than, dầu và khí tự nhiên trở nên rõ ràng. Trong khi đó, tỷ lệ chi phí nhập khẩu than, dầu và khí tự nhiên trong tổng thu nhập quốc nội ngày càng tăng. Đáng lưu ý, ngành năng lượng nước ta ngày càng phụ thuộc vào nhập khẩu; tài nguyên năng lượng sơ cấp Việt Nam ngày càng cạn kiệt. Tài nguyên năng lượng sơ cấp về thủy điện về cơ bản đã khai thác hết. Bên cạnh đó, sản lượng dầu và khí ở một số mỏ lớn đã suy giảm nhanh, việc phát triển mỏ mới trên Biển Đông gặp nhiều khó khăn.
Ngành điện cần hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về phát triển điện lực, phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt ban hành cơ chế phát triển điện mặt trời mái nhà để hạn chế tình trạng thiếu điện.
Về giải pháp cần làm ngay trong giai đoạn 2024-2050, báo cáo của UBTVQH nhấn mạnh, cần điều chỉnh kịp thời giá bán lẻ điện theo biến động thực tế của thông số đầu vào, giá nguyên nhiên liệu, tỷ giá, thị trường điện. Điều này nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, bù đắp chi phí và lợi nhuận hợp lý, bảo toàn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Cần sớm luật hóa việc điều hành giá bán lẻ điện theo tinh thần "xoá bỏ mọi rào cản để bảo đảm giá năng lượng minh bạch do thị trường quyết định", rút ngắn thời gian giữa các lần điều chỉnh giá điện; điều hành giá bán lẻ điện linh hoạt, bám sát diễn biến thị trường.
Đặc biệt, UBTQH nhấn mạnh ngành điện, cơ quan quản lý Nhà nước cần có cơ chế tách bạch chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động công ích, chi phí xã hội và chi phí quản trị doanh nghiệp hiệu quả đối với giá bán điện. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế giá truyền tải điện đảm bảo thu hút đầu tư vào lưới điện truyền tải và theo từng khu vực địa lý. Ngành điện cần tính toán, xác định khung giá điện khí để đảm bảo hiệu quả đầu tư của dự án điện; hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về phát triển điện lực, phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt ban hành cơ chế phát triển điện mặt trời mái nhà cho khu vực miền Bắc để hạn chế tình trạng thiếu điện ngay trong năm 2024 và các năm tiếp theo...
Hoàng Nguyên
Bình luận