Hotline: 0941068156
Thứ tư, 22/01/2025 16:01
Thứ bảy, 30/11/2024 08:11
TMO – Vùng đồng bằng sông Hồng bảo đảm diện tích đất trồng lúa để đáp ứng an ninh lương thực của vùng, quốc gia và một phần cho xuất khẩu, bảo đảm sản lượng lúa ít nhất trên 4,8 triệu tấn/năm; ưu tiên phát triển sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao, đến năm 2030, tỷ lệ lúa chất lượng cao đạt 65% trở lên.
Vùng đồng bằng sông Hồng có vị trí, vai trò quan trọng, là vùng trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học công nghệ của cả nước. Đồng bằng sông Hồng có tiềm năng to lớn và nhiều lợi thế vượt trội so với nhiều vùng kinh tế - xã hội khác, trong đó có sản xuất nông nghiệp. Theo đó, Vùng đồng bằng sông Hồng đã có các tập đoàn giống cây trồng, vật nuôi được tạo lập tốt; đã hình thành các vùng lúa xuất khẩu và các vùng sản xuất lúa, ngô, rau thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp tại các tỉnh Hải Dương, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc. Bên cạnh đó, chăn nuôi gà và lợn hiện đang chiếm 40% sản lượng cả nước; phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt thuỷ sản khoảng 620 km bờ biển; thực hiện trồng và khoanh nuôi bảo vệ rừng, bảo vệ rừng ngập mặn và rừng phòng hộ ven biển.
Tuy nhiên, việc phát triển nông nghiệp, nông thôn của vùng cũng tồn tại nhiều hạn chế. Cụ thể: Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất để tổ chức vùng nguyên liệu còn chậm; mặc dù đã xuất hiện các mô hình liên kết nhưng quy mô còn nhỏ lẻ, chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng của vùng; tích tụ, tập trung ruộng đất được thực hiện, phát triển thông qua mô hình “cánh đồng lớn” tuy nhiên diện tích đất sản xuất nông nghiệp phân tán, manh mún, nhỏ lẻ vẫn phổ biến, dẫn đến khó ứng dụng công nghệ cao, cơ giới hóa, tự động hóa vào sản xuất.
Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, giảm phát thải.
Việc xây dựng nông nghiệp công nghệ cao chưa tạo được đột phá để nâng cao hiệu quả sản xuất và giá trị gia tăng; chưa có nhiều doanh nghiệp đóng vai trò đầu tầu trong xây dựng khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; Công nghiệp chế biến nông sản, kết cấu hạ tầng bảo quản, chế biến chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất quy mô lớn gắn với vùng nguyên liệu tập trung; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, khó khăn như ô nhiễm môi trường làng nghề, bãi rác tập trung chôn lấp...
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã đề ra phương hướng phát triển, bởi nông nghiệp được xác định là một trong những ngành, lĩnh vực tiềm năng, lợi thế của vùng.
Theo đó, ngành nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng phát triển theo hướng bền vững, sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn, giá trị cao gắn với xây dựng nông thôn mới hiện đại, nông dân văn minh; phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch, tạo việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn và thúc đẩy quá trình đô thị hóa. Tổ chức lại sản xuất, cơ cấu lại cây trồng, vật nuôi để hình thành các khu sản xuất nông nghiệp tập trung quy mô lớn, hiệu quả.
Bảo đảm diện tích đất trồng lúa để đáp ứng an ninh lương thực của vùng, quốc gia và một phần cho xuất khẩu, bảo đảm sản lượng lúa ít nhất trên 4,8 triệu tấn/năm; ưu tiên phát triển sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao, đến năm 2030, tỷ lệ lúa chất lượng cao đạt 65% trở lên. Mở rộng diện tích rau, củ, quả thực phẩm vụ đông, ôn đới chất lượng cao, an toàn, nhất là trồng rau, củ, quả, hoa, nấm ăn, cây dược liệu ứng dụng công nghệ cao; tăng diện tích sản xuất rau quả chất lượng cao, an toàn, có truy xuất nguồn gốc và diện tích trồng hoa ứng dụng công nghệ cao.
Phát triển sản xuất rau quả tập trung theo hướng ứng dụng công nghệ cao, quy mô lớn tại Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam và khu vực ngoại thành thành phố Hà Nội; sản xuất cây dược liệu tập trung tại Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình; sản xuất hoa ứng dụng công nghệ cao tập trung tại Quảng Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định và ngoại thành Hà Nội.
Phát triển chăn nuôi lợn theo hướng trang trại, gia trại, khu chăn nuôi hợp tác xã có cơ sở vật chất, trang thiết bị chăn nuôi phù hợp, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ nuôi hiện đại đáp ứng an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường. Phát triển chăn nuôi trâu, bò, nhất là bò thịt chất lượng cao và chăn nuôi bò sữa gắn với chế biến; phát triển các vùng chăn nuôi lợn hàng hóa và cho chế biến công nghiệp tập trung tại Vĩnh Phúc, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, khu vực ngoại thành Hà Nội.
Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sinh thái, ứng dụng công nghệ cao, chủ yếu mở rộng diện tích nuôi thủy sản, đặc sản nội đồng trong đất liền và diện tích nuôi thủy sản trên biển, vùng đảo tại các khu vực phù hợp, tập trung vào các sản phẩm cá nước ngọt có giá trị hàng hóa cao và các hải sản có giá trị xuất khẩu, chế biến. Phát triển các vùng nuôi thủy sản nước ngọt tập trung ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình. Ổn định diện tích nuôi thủy sản nước mặn, nước lợ vùng bờ ở các địa phương ven biển; mở rộng diện tích nuôi thủy sản sinh thái trên biển, vùng đảo ở Quảng Ninh, Hải Phòng.
Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng dịch vụ hậu cần nghề cá ngư trường vịnh Bắc Bộ, mở rộng phát triển mạng lưới các trung tâm, cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá ở vùng đảo thuộc Quảng Ninh, Hải Phòng. Đẩy nhanh xây dựng phát triển trung tâm nghề cá vùng ở Hải Phòng đáp ứng yêu cầu phát triển, hiện đại hóa ngành khai thác thủy sản vùng…/.
THIÊN LÝ
Bình luận