Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 07:11
Thứ bảy, 29/07/2023 12:07
TMO - Để thực hiện triển khai Quy hoạch Điện VIII, Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện môi trường pháp lý, sớm ban hành Luật điện lực sửa đổi; Luật về năng lượng tái tạo, một số cơ chế đặc thù, tháo gỡ khó khăn trong triển khai thực hiện Quy hoạch.
Theo Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, trong cơ cấu năng lượng hiện nay, nhiệt điện than đóng góp tỷ trọng lớn nhất 39,1%, thứ hai là nguồn thủy điện chiếm 35,4% và thứ ba là nhiệt điện khí chiếm 11%, các nguồn năng lượng tái tạo (điện mặt trời, gió và sinh khối) chiếm 12,9%.
Thông tin từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, năm 2023, qua cập nhật tính toán cân đối cung cầu điện các tháng tiếp theo cho thấy việc đảm bảo cung ứng điện toàn quốc gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do thời tiết cực đoan dẫn đến phụ tải tăng cao (năm 2023 dự báo diễn biến El Nino tương tự năm 2009, gây nên hiện tượng nắng nóng gay gắt và kéo dài đến tháng 8 tập trung tại khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ). Tháng 5 mặc dù chưa phải là tháng cao điểm của mùa nắng nóng nhưng ngày 19/5/2023, phụ tải hệ thống điện quốc gia đã tăng lên mức kỷ lục mới 923,9 triệu kWh (cao nhất từ đầu năm đến nay và tăng 21,9% so với bình quân ngày tháng 5/2022), công suất tiêu thụ cực đại đạt 44.620 MW (cao nhất từ đầu năm đến nay và tăng 8.5% so với cùng kỳ tháng 5/2022).
EVN cho biết, việc đảm bảo cung ứng điện toàn quốc trong các tháng tiếp theo gặp nhiều khó khăn.
Theo đó, tình hình khô hạn diễn ra trên cả nước làm suy giảm công suất và sản lượng các nhà máy thủy điện trên toàn hệ thống. Việc cấp than cho sản xuất điện vẫn gặp khó khăn. Trong khi đó, khả năng cấp khí cho phát điện trong năm 2023 tiếp tục có xu hướng giảm so với các năm trước. Bên cạnh đó, công suất và sản lượng điện phát từ các nguồn năng lương tái tạo thấp hơn nhiều so với kể hoạch do ảnh hưởng của thời tiết.
Trước thực trạng trên, EVN đã quyết liệt thực hiện các giải pháp (tăng nguồn cung nhiên nhiệu cho các nhà máy điện, bổ sung thêm các nguồn điện mới, đẩy mạnh tiết kiệm điện, huy động tối ưu nguồn thủy điện) để đảm bảo cung ứng đủ điện trong giai đoạn khó khăn mang tính cục bộ thời gian qua.
Nhiều chuyên gia cho rằng, vấn đề tồn tại của Quy hoạch điện trước đây là quá nhiều dự án chậm tiến độ, không thể đưa vào cung ứng điện, khiến cho việc đảm bảo an ninh năng lượng xuất hiện nhiều vấn đề. Vấn đề chậm tiến độ của các dự án điện trong nhiều năm là 1 trong những nguyên nhân chính, dẫn đến khó khăn trong cung cấp điện thời gian qua, thậm chí có những dự án chậm hàng chục năm chưa có phương án giải quyết.
Với điện khí, tổng công suất nguồn tua bin khí đã được Điều chỉnh Quy hoạch điện VII đưa vào vận hành trong giai đoạn 2016-2030 là 26.640 MW tương ứng 20 dự án. Tuy nhiên, hầu hết các dự án quan trọng chậm tiến độ, như chuỗi khí-điện Lô B Ô Môn (3.750 MW) mới có Ô Môn I vào từ năm 2009, dự kiến đưa tua bin khí Ô Môn III vào từ năm 2012, sau Điều chỉnh Quy hoạch điện VII lùi đến 2020. Nhưng thực tế hiện nay, Dự án này đến này chưa giải quyết xong thủ tục vay vốn ODA từ Nhật Bản.
Đối với các dự án điện than, có 37 dự án nhiệt điện than với tổng công suất 35.112 MW đã phê duyệt trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh, dự kiến vận hành trong giai đoạn 2016-2030. Nhưng thực tế kiểm lại cho thấy, có hàng chục dự án chậm tiến độ, như Nhiệt điện Sông Hậu I, Thái Bình II, Long Phú I, Na Dương II, An Khánh Bắc Giang, Quảng Trạch I, Nam Định I BOT…
Với điện mặt trời, trong thời gian ngắn các dự án phát triển quá “nóng” để kịp hưởng cơ chế giá ưu đãi, đã gây nghẽn mạch nhiều đường dây truyền tải, phải cắt giảm năng lượng. Đó là chưa kể một số dự án sai phạm do chưa hoàn thành đủ các thủ tục đầu tư xây dựng. Nhiều dự án điện mặt trời đã được bổ sung trong điều chỉnh Quy hoạch và chưa triển khai xây dựng, nhưng Chính phủ đã dừng lại để rà soát. Vì vậy, từ nay đến năm 2030 chưa có thêm các nguồn điện mặt trời tập trung được đưa vào.
Việc không sớm giải quyết những vướng mắc và thúc đẩy dự án, sẽ khó đảm bảo cung ứng điện (Ảnh minh họa).
Trước thực trạng trên, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng, thị trường năng lượng tái tạo cần có các chính sách và thủ tục pháp lý rõ ràng để tăng sự quan tâm của các nhà đầu tư, đồng thời, các cơ quan quản lý cần đưa ra các chính sách với các điều kiện tạo ra môi trường đầu tư ổn định và có thể dự đoán được, giúp vượt qua các rào cản và đảm bảo dự đoán được dòng doanh thu của các dự án.
Đồng thời, cần tiến hành cân bằng công suất - điện năng, xác định khối lượng các dự án điện mặt trời, điện gió và các nguồn năng lượng tái tạo cần xây dựng trong giai đoạn 2023 - 2025 - 2030. Việc cân đối được tiến hành theo từng vùng, miền để xác định công suất mỗi loại cần đưa vào trong từng năm của mỗi vùng, miền. Đề xuất cơ chế sử dụng đất cho phát triển các dự án năng lượng tái tạo. Mặt khác, để quản lý hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo biến đổi quy mô lớn, tính linh hoạt phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của hệ thống năng lượng, từ phát điện đến hệ thống truyền tải và phân phối, lưu trữ (ca điện và nhiệt) và phía cầu.
Bộ Công Thương cần thiết lập kế hoạch chi tiết 5 năm tới để triển khai các công tác về phân quy mô các nguồn năng lượng tái tạo từ vùng tới các tỉnh; đảm bảo sớm lựa chọn được chủ đầu tư các dự án quan trọng cũng như các dự án năng lượng tái tạo; có biểu giám sát việc thực hiện đầu tư xây dựng nguồn và lưới điện đồng bộ. Với các dự án nguồn điện quan trọng quốc gia, cần thiết có chế độ giám sát nghiêm ngặt từ Chính phủ, Bộ Công Thương, không để xảy ra tình trạng dự án chậm nhiều năm.
Với các dự án điện khí hóa lỏng LNG, vì đây là loại hình nguồn điện thay thế điện than, giảm phát thải CO2, cần thiết sớm lập kế hoạch chi tiết về địa điểm, chọn chủ đầu tư; Bộ công Thương chỉ đạo, hỗ trợ cũng như giám sát tối đa chủ đầu tư trong quá trình đầu tư; sớm sàng lọc, loại bỏ các chủ đầu tư kém năng lực hoặc triển khai kiểu cầm chừng. Ngoài ra, cơ chế về hoàn thiện công cụ tài chính đối với các loại phát thải trong ngành điện (ví dụ tín chỉ các-bon, thuế các-bon) là cần thiết để khuyến khích nghiên cứu, áp dụng vào thực tế các loại công nghệ, nhiên liệu sạch, đồng thời tăng tính cạnh tranh công bằng giữa nguồn điện than với nguồn điện khí, vốn có giá nhiên liệu cao hơn, nhưng sạch hơn.
Đối với các dự án điện gió ngoài khơi, thời gian đầu tư xây dựng từ 6 - 8 năm. Nếu không sớm chọn được dự án và chủ đầu tư sẽ rất khó thực hiện được quy mô điện gió ngoài khơi đến năm 2030 là 6.000 MW. Do vậy, cần có cơ chế đấu thầu để đầu tư các dự án này, chọn các nhà thầu có đủ năng lực về vốn - tài chính, đội ngũ kỹ thuật, dẫn tới giảm chi phí, đảm bảo chất lượng, đúng tiến độ.
Duy Anh
Bình luận