Hotline: 0941068156
Thứ tư, 27/11/2024 02:11
Thứ bảy, 27/01/2024 08:01
TMO - Sau hơn 10 năm (2011 – 2022), tỷ lệ đóng góp của ngành khai khoáng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) từ 6,4% đã giảm xuống còn 2,8%. Điều này cho thấy phát triển kinh tế đang bớt phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Trong Dự thảo về Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 (do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì) nêu rõ, trong những năm qua, nguồn lực tài nguyên khoáng sản đã phát huy tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, từng bước kiểm soát tình trạng khai thác khoáng sản trái phép. Sau hơn 10 năm (2011 – 2022), tỷ lệ đóng góp của ngành khai khoáng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) từ 6,4% đã giảm xuống còn 2,8%. Điều này cho thấy, sự phát triển kinh tế của Việt Nam đang bớt phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Theo phương pháp phân tích dòng vật liệu, để tạo ra một nghìn đồng GDP cần tiêu tốn hết khoảng 19,19g than đá hoặc 0,25g sắt, thép hoặc 1,6g dầu thô. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh mức độ phụ thuộc của nền kinh tế và nguyên liệu thô đã giảm dần. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị tiên tiến, hiện đại trong khai thác, chế biến khoáng sản, nhất là đối với lĩnh vực khai thác, chế biến than, xi măng... Điều này thúc đẩy các ngành phát triển theo hướng bền vững, giảm tiêu hao điện, năng lượng, giảm tổn thất tài nguyên khoáng sản, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Giảm phục thuộc vào khai thác khoáng sản.
Ngoài ra, chính sách đấu giá quyền khai thác khoáng sản, thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản từng bước đi vào thực tiễn cũng góp phần chuyển hóa nguồn tài nguyên khan hiếm này, không tái tạo thành nguồn lực và đóng góp cho mục tiêu tăng trưởng, phát triển chung. Tuy nhiên, hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản vẫn chưa tận dụng và sử dụng các hiệu quả khoáng sản đi kèm như đất đá thải bỏ từ hoạt động khai thác, đặc biệt là những loại khoáng sản chiến lược phục vụ cho phát triển năng lượng, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ cao.
Đối với kinh tế rừng, Dự thảo Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 nêu rõ sẽ khai thác phù hợp, hiệu quả kinh tế từ tài nguyên rừng. Theo đó, ngoài tiềm lực về tài nguyên nước và tài nguyên khoáng sản, hiện nay, nguồn sinh khối lớn nhất là rừng. Với tổng diện tích đất có rừng bao gồm cả rừng trồng chưa khép tán khoảng 14.745.201 ha, trong đó, rừng tự nhiên khoảng 10.171.757 ha; Rừng trồng khoảng 4.573.444 ha. Tỉ lệ che phủ rừng toàn quốc đạt hơn 42%. Các chính sách hỗ trợ phát triển lâm nghiệp đã tương đối đầy đủ và rõ ràng, cho phép người dân, doanh nghiệp khai thác kinh tế nhằm mục tiêu bảo vệ rừng hiệu quả và phát triển rừng bền vững đối với một số loại rừng. Một số địa phương đã ban hành quy định tạm thời cho thuê môi trường rừng để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí.
Đẩy mạnh phát triển bền vững kinh tế rừng.
Ngoài ra, ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu của Việt Nam đã và đang phát triển nhanh và ổn định, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm đồ gỗ trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu bền vững. Hàng năm nước ta sử dụng khoảng 35 triệu m3 gỗ rừng trồng; nhập khẩu 5-6 triệu m3 gỗ quy tròn. Diện tích rừng trồng sản xuất đáp ứng gần 80% nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu trong chế biến.
Theo Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn năm 2050, định hướng phát triển nền công nghiệp chế biến gỗ sẽ đi theo hướng phát triển cơ giới hóa và công nghiệp chế biến lâm sản theo hướng ứng dụng công nghệ hiện đại, thông minh, hiệu quả, an toàn, ít phát thải và bền vững. Việc áp dụng kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực chế biến gỗ sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu trong Chiến lược phát triển Lâm nghiệp khi gắn kết giữa việc phát triển công nghiệp chế biến gỗ với bảo vệ tài nguyên rừng. Do đó, trong thời gian tới, cần có giải pháp chiến lược để tận dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, giảm thiểu áp lực về nguồn cung các nguyên liệu, vật liệu cho hoạt động kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn thông qua các nguyên liệu đầu vào chính của hoạt động sản xuất, kinh doanh của từng địa phương như khoáng sản, nước và nguồn tài nguyên sinh khối.
NGÔ HUYỀN
Bình luận