Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 04:11
Thứ sáu, 08/09/2023 07:09
TMO - Góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), một số đại biểu Quốc hội cho rằng, việc bảo vệ nguồn sinh thủy để giữ gìn và phục hồi nguồn nước rất quan trọng. Do vậy, trong lần sửa đổi Luật này, cần rà soát Dự thảo Luật đảm bảo đồng bộ với các luật hiện hành...
Điều 30 Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) về bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy quy định: Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng hồ chứa, các dự án khai thác, chế biến khoáng sản và các hoạt động khác có sử dụng hoặc ảnh hưởng đến diện tích rừng phải trồng bù diện tích rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp. Tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa phải đóng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng để bảo vệ vùng sinh thuỷ thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp. Nhà nước có cơ chế điều phối, phân bổ nguồn thu từ tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng để đầu tư cho hoạt động bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, bảo vệ nguồn sinh thủy trên lưu vực; có chính sách phân bổ nguồn thu từ khai thác sử dụng nước ở các địa phương hạ nguồn để chi trả cho các địa phương thượng nguồn, đảm bảo công bằng, hợp lý...
Góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đối với nội dung trên, đại biểu Nguyễn Anh Trí – Đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Hà Nội đề cập đến giá trị của các hồ, đập để giữ nước. Theo đó, hồ, đập trữ nước có giá trị rất lớn, không chỉ cấp nước mà còn giữ nước để phục vụ thủy điện, hoạt động thủy sản, du lịch… Tuy nhiên, hầu như năm nào cũng vậy, xả lũ với mục tiêu đảm bảo an toàn hồ đập, nhưng người dân lại chịu thiệt hại từ hoạt động này. Cần có quy định làm tăng khả năng chịu tải của hồ đập, trong đó xây dựng nhiều vị trí tháo nước, xả lũ, phân tán nhiều phía, nhiều vùng, nhiều tỉnh… Làm được như vậy sẽ giảm tác hại từ việc xả lũ, an toàn hồ đập được tăng lên và bảo đảm được an toàn cho Nhân dân ở những vùng có xả lũ
Đại biểu Trần Văn Lâm, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội cho rằng, việc xây dựng nhiều vị trí tháo nước, xả lũ, phân tán nhiều phía, nhiều vùng, nhiều tỉnh là một giải pháp kỹ thuật hoàn toàn khả thi nhưng giải pháp này vẫn chưa giải quyết được từ gốc, mà cần tiếp tục tăng khả năng trữ nước của thảm thực vật trên lưu vực.
Qua khảo sát các công trình hồ, đập tại tỉnh Bắc Giang, đại biểu Trần Văn Lâm cho biết có thực trạng một loạt các công trình hồ, đập đã được xây dựng nhưng không phát huy đầy đủ công năng, không tích đủ nước; mùa hè (mùa mưa) phải xả tràn do thừa nước nhưng sau đó đến mùa khô thì hồ đập cạn kiệt. Vì vậy, hiệu quả sử dụng các công trình rất thấp, bởi khả năng trữ nước sinh thủy của thảm thực vật hiện nay suy giảm một cách nghiêm trọng, nhiều nơi các hồ không phát huy được tác dụng như thiết kế ban đầu.
Nguyên nhân thảm thực vật đã chuyển từ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng sang rừng sản xuất, trong khi đó rừng sản xuất khả năng trữ nước rất hạn chế. Theo đại biểu, vấn đề cần giải quyết hiện nay là tăng khả năng sinh thủy của các lưu vực sông để cấp nước cho các hồ đập tự nhiên và hồ đập nhân tạo để bảo vệ năng lực và hiệu quả hoạt động của các công trình hồ đập.
Dự thảo Luật cần quy định các tổ chức, cá nhân khai thác và sử dụng nguồn nước đều phải có trách nhiệm đóng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng, để bảo vệ vùng sinh thuỷ thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa (Ảnh: HQ).
Điều 30 của Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã đưa ra nhiều biện pháp để bảo vệ và tăng nguồn sinh thủy. Để các quy định cụ thể, mạnh mẽ hơn, đại biểu Trần Văn Lâm đề nghị cần quy định cụ thể về bảo vệ nguồn sinh thủy, trong đó cần coi đây là chính sách quốc gia và đưa vào Điều 4, đó là chính sách của Nhà nước để bảo vệ và gia tăng khả năng trữ nước sinh thủy trong các lưu vực sông. Không phải chỉ với các chính sách hiện nay, thời gian tới cần phải mở rộng các chính sách này.
Trong đó mở rộng hơn nữa các đối tượng hiện nay đang khai thác, sử dụng nguồn lợi tài nguyên nước đóng góp tương xứng vào Quỹ dịch vụ môi trường rừng để lấy nguồn kinh phí bù đắp cho vấn đề bảo vệ rừng đặc dụng, bảo vệ rừng phòng hộ; hoặc trong quy hoạch các loại rừng, phải làm rõ căn cứ khoa học của việc xác định tỷ lệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng một cách hợp lý để bảo đảm khả năng sinh thủy. Các chính sách này cần có tác dụng động viên, khuyến khích để ngày càng chuyển nhiều rừng sản xuất sang rừng phòng hộ, có như vậy mới bảo vệ được môi trường, bảo vệ khả năng sinh thủy an toàn cho nguồn nước.
Cùng với đó, cần có các quy định nâng cao hoặc bảo đảm khả năng sinh thủy, giữ nước bằng thảm thực vật. Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung vào Điều 10 về công tác điều tra cơ bản, lập các chiến lược quy hoạch về tài nguyên nước, trong đó bổ sung nội dung điều tra về khả năng giữ nước sinh thủy của thảm thực vật trên từng lưu vực sông, hồ; xác lập các tiêu chuẩn, căn cứ khoa học để xác định diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ tối thiểu cho từng vùng, từng khu vực, từng lưu vực cụ thể. Đồng thời, hướng tới mục tiêu lập bản đồ tổng thể quốc gia về vấn đề này để nâng cao hiệu quả quản lý, góp phần làm căn cứ cho việc lập các chiến lược quy hoạch về tài nguyên nước cũng như tăng cường công tác bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hệ thống hồ đập…
Khoản 5 Điều 30 dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) quy định: Tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa phải đóng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng để bảo vệ vùng sinh thuỷ thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp. Cho ý kiến về quy định này của dự thảo luật, đại biểu Trần Văn Tuấn – Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang cho rằng, việc bảo vệ nguồn sinh thủy để giữ gìn và phục hồi nguồn nước rất quan trọng. Qua khảo sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang về tình hình đập, hồ chứa nước trên địa bàn cho thấy khá nhiều vấn đề nổi lên, đặc biệt là tình trạng suy cạn, suy kiệt nguồn nước.
Nguyên nhân suy kiệt của nguồn nước đó là nguồn sinh thủy chưa bảo đảm, công tác quy hoạch rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng còn có nhiều vấn đề đặt ra, đặc biệt là chế độ khoán cho người dân, cho các tổ chức, cá nhân trong vấn đề bảo vệ rừng cũng còn bất cập. Theo quy định hiện nay, với mức khoán để bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là 300.000-400.000ha/năm là quá thấp. Với mức khoán như vậy có thể dẫn đến tình trạng chính người được khoán bảo vệ rừng sẽ trở thành những người phá rừng, sẵn sàng chuyển diện tích được giao khoán bảo vệ đó để chuyển sang rừng kinh tế, rừng trồng, bởi vì hiệu quả kinh tế cao hơn. Do đó, đại biểu Trần Văn Tuấn đề nghị tiếp tục hoàn thiện Luật Tài nguyên nước và các luật liên quan, đặc biệt là Luật Lâm nghiệp theo hướng dành kinh phí thỏa đáng hơn nữa cho công tác khoán bảo vệ rừng, nhất là rừng phòng hộ.
Qua nghiên cứu, đại biểu cho biết, Điều 61 của Luật Lâm nghiệp hiện hành đã có quy định các loại dịch vụ môi trường rừng, có 5 dịch vụ cơ bản và quy định rất rõ bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng phải chi trả dịch vụ môi trường rừng cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Tại Điều 63 của Luật Lâm nghiệp quy định có 6 đối tượng phải chi trả dịch vụ này, bao gồm cơ sở sản xuất thủy điện, cơ sở sản xuất, cung ứng nước sạch, cơ sở sản xuất công nghiệp; tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh gây phát thải khí nhà kính phải chi trả dịch vụ về hấp thụ, lưu giữ carbon của rừng, cơ sở nuôi trồng thủy sản và các đối tượng khác.
Tuy nhiên, trong Điều 30 của dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) chỉ quy định chỉ có tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa nước phải đóng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng để bảo vệ vùng sinh thủy thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa nước theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp.
Theo đại biểu Trần Văn Tuấn, quy định như vậy vừa chồng chéo, vừa thiếu đồng bộ so với Luật Lâm nghiệp, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc quy định điều này theo hướng đồng bộ với Luật Lâm nghiệp. Trong đó, chỉ cần quy định theo hướng: các tổ chức, các cá nhân khai thác và sử dụng nguồn nước hoặc có hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến nguồn nước đều phải có trách nhiệm chi trả kinh phí về dịch vụ môi trường rừng để bảo vệ vùng sinh thuỷ thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa.
Thời gian qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức các phiên họp về xây dựng dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), tập trung vào 4 nhóm chính sách: Bảo đảm an ninh nguồn nước; xã hội hóa ngành nước; kinh tế tài nguyên nước; bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra và đề xuất sửa đổi bổ sung một số chính sách khác. Các nhà khoa học, chuyên gia cơ bản nhận thấy tầm quan trọng của việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước; sự cần thiết phải cập nhật, thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước.
Cùng với đó, nghiên cứu xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) theo hướng bổ sung, hoàn thiện các chính sách đã ban hành. Đồng thời, các đại biểu cho rằng, việc nghiên cứu, tích hợp các quy định về quản lý nước trong một luật về nước là cần thiết nhằm thống nhất quản lý về tài nguyên nước; đồng thời phân công, phân cấp rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về nguồn nước cũng như trách nhiệm quản lý xây dựng, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước.
Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) gồm 83 điều; được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương; giữ nguyên 9 điều; sửa đổi, bổ sung 59 điều; bổ sung mới 15 điều và bãi bỏ 13 điều. Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, dự thảo Luật sẽ được trình Quốc hội xem xét, thảo luận và thông qua tại Kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội khóa XV dự kiến diễn ra vào cuối tháng 10/2023. Để đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật, ngay sau khi Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) được Quốc hội thông qua, các Nghị định và Thông tư hướng dẫn sẽ được ban hành.
V. Khang
Bình luận