Hotline: 0941068156
Chủ nhật, 24/11/2024 03:11
Chủ nhật, 01/10/2023 08:10
TMO - Với tốc độ khai thác cát hiện tại ở đồng bằng Sông Cửu Long dao động từ 35-55 triệu m3/năm, trữ lượng cát này được dự báo sẽ hoàn toàn cạn kiệt trước năm 2035.
Các chuyên gia từ Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên WWF Việt Nam chỉ ra những phát hiện khoa học gần đây chứng minh, xói mòn lòng, bờ sông, bờ biển và xâm nhập mặn chủ yếu do thiếu hụt trầm tích. Tình trạng đó xuất phát từ việc phát triển thủy điện ở thượng nguồn lưu vực sông Mekong và hoạt động khai thác cát. Điển hình, đến cuối năm 2022 toàn đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có đến 596 vị trí sạt lở bờ sông với chiều dài gần 583km và 48 vị trí sạt lở bờ biển dài 221,7km. Trong đó có tới 99 điểm được phân loại đặc biệt nguy hiểm. Tình trạng này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội của hàng triệu người dân ĐBSCL.
Trải qua gần 20 tháng thực hiện hoạt động nghiên cứu, khảo sát, đo đạc, phân tích số liệu, tham vấn các bên liên quan, đến nay việc xây dựng ngân hàng cát cho ĐBSCL đã hoàn thành. Đây là dự án nghiên cứu đầu tiên trên thế giới có quy mô toàn đồng bằng. Ngân hàng cát được xây dựng dựa trên bốn yếu tố gồm lượng cát đổ về Đồng bằng Sông Cửu Long, lượng cát đổ ra biển, lượng cát khai thác trong đồng bằng và trữ lượng cát hiện có ở đáy sông. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của WWF Việt Nam đã tiến hành đo đạc trên chiều dài khoảng 550km dọc sông Tiền và sông Hậu, đồng thời lấy mẫu trầm tích bề mặt đáy sông kết hợp với một số dữ liệu thăm dò khác.
Khai thác cát tại miền Tây có xu hướng tăng cả về số điểm và tốc độ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tổng trữ lượng cát đo được ước tính khoảng 367-550 triệu m3, đây là lượng cát được tích lũy từ hàng trăm năm qua, có vai trò quan trọng đối với sự ổn định của đồng bằng. Phân bố cát dọc sông Mekong thông qua ước tính trữ lượng cát cao và thấp cho thấy, thượng nguồn sông Tiền và sông Cổ Chiên (Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long) có trữ lượng cát cao nhất, sau đó là sông Hậu. Cụ thể, trữ lượng ở Đồng Tháp là 75-93 triệu m3, hay Cần Thơ là 32-48 triệu m3.
Trữ lượng cát thấp hơn đáng kể ở hạ lưu sông Mekong và sông Hàm Luông. Càng về cửa biển, lượng cát càng giảm. Tuy nhiên, một số vùng ở giữa sông Tiền và sông Hậu không còn cát do bị khai thác quá mức (vùng không màu trên bản đồ). Về chất lượng, cát ở thượng lưu mịn hơn, và càng về hạ lưu - hướng ra Biển Đông - thì chuyển dần sang cát bùn với thành phần chính là sét. Cát thô và trung bình phù hợp cho xây dựng (đổ bêtông), cát mịn đến rất mịn thường dùng để san lấp nền. Số liệu đo đạc lượng cát ở Đồng bằng Sông Cửu Long là ước tính dựa trên lớp cát di động, chứ không phải khảo sát trữ lượng cát ở các mỏ.
Kết quả nghiên cứu cho năm 2022, lượng cát đổ về từ thượng nguồn Mekong vào Việt Nam qua sông Tiền (Tân Châu, An Giang và Hồng Ngự, Đồng Tháp) và sông Hậu (Châu Đốc, Đồng Tháp) ước tính 2-4 triệu m3. Con số này thấp hơn nhiều so với ước tính trước đây là 6,8-7 triệu tấn. Trong khi đó, lượng cát đổ ra cửa Biển Đông là 0-0,6 triệu m3, và lượng cát khai thác hàng năm trong giai đoạn 2017-2022 từ 35-55 triệu m3. Số liệu này được tính dựa trên dữ liệu vận chuyển tải lượng đáy, lưu lượng nước, tốc độ dòng chảy, hàm lượng trầm tích lơ lửng, mực nước, từ đó lập mô hình phân tích mô tả sông Mekong từ hồ Tonle Sap ở Campuchia đến ĐBSCL, và thêm 70 km thềm lục địa ngoài khơi.
Với tốc độ khai thác như hiện nay, ĐBSCL đối diện với nguy cơ cạn kiệt nguồn cát trước năm 2035.
Theo nghiên cứu này, tốc độ khai thác cát tại miền Tây có xu hướng tăng từ năm 2017 đến 2020 cả về số điểm và tốc độ. Từ 2021, xu hướng này đảo chiều theo đà giảm. Năm 2022, tốc độ khai thác là 35-55 triệu m3. Số liệu này cao hơn các nghiên cứu tương tự từng thực hiện từ năm 2013 đến 2022. Nhóm nghiên cứu dự báo nếu trữ lượng cát bị khai thác hết (500 triệu m3), đáy sông sẽ sâu thêm 0,5-1 m. Hệ quả là thêm 180-200 nghìn ha sẽ bị ảnh hưởng mặn (tăng 10 %) và biên độ thuỷ triều sẽ tăng thêm 6-8 cm. Tình trạng sạt lở và sụt lún cũng sẽ nghiêm trọng hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, với tốc độ khai thác cát hiện tại ở Đồng bằng Sông Cửu Long dao động từ 35-55 triệu m3/năm, trữ lượng cát này sẽ hoàn toàn cạn kiệt trước năm 2035. Vì vậy, cần phải nghiên cứu tìm các nguồn vật liệu thay thế cho các công trình, vừa đảm bảo nhu cầu phát triển, vừa đảm bảo được hệ sinh thái của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long trước tác động của biến đổi khí hậu. Nhóm nghiên cứu nhận thấy có 18 nguồn vật liệu thay thế nguồn cát phục vụ xây dựng; trong đó có 8 loại vật liệu có tiềm năng và có thể sử dụng ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long gồm cát nghiền, tro xỉ, tro bã mía… Theo nhóm nghiên cứu của WWF Việt Nam, do hạn chế về nguồn lực để thực hiện khoan địa chất dọc theo lòng sông chính nên ước lượng trữ lượng cát của dự án này tập trung vào trữ lượng của lớp cát di động trên toàn bộ lòng chính của sông Tiền và sông Hậu.
Đây là toàn bộ cát có ở bề mặt đáy sông được vận chuyển từ thượng nguồn trong thời gian hàng trăm năm và không có nghĩa là tất cả lượng cát này để khai thác bởi có những khu vực độ dày tầng cát di động có thể tới 5m (có thể khai thác) nhưng có những khu vực chỉ 10-20cm (không thể khai thác).
Để khai thác cát bền vững, duy trì sự ổn định của ĐBSCL, ông Hà Huy Anh, Quản lý Quốc gia Dự án Quản lý Cát Bền vững ở ĐBSCL (WWF) khuyến nghị chính quyền sử dụng ngân hàng cát như công cụ để lập kế hoạch khai thác và quy hoạch quản lý cát sông toàn châu thổ. Kế hoạch này cần xem xét cả trữ lượng hiện có dưới đáy sông và lượng cát đổ về từ thượng nguồn. Việc quản lý cát sông nên được điều phối bởi một cơ quan cấp vùng thay vì các tỉnh riêng lẻ theo ranh giới hành chính như hiện nay.
Nghiên cứu Ngân hàng cát ĐBSCL do WWF và Liên doanh tư vấn Deltares thực hiện dưới sự quản lý của Cục Đê điều và Phòng chống thiên tai (Bộ NN-PTNT) trong khuôn khổ Quỹ Sáng kiến khí hậu thế giới của Chính phủ Đức. Các dữ liệu của Ngân hàng cát ĐBSCL sẽ là nguồn tham khảo cho các tỉnh, thành ĐBSCL và các bộ, ngành liên quan. Mục tiêu lớn nhất là tìm ra được giải pháp, đồng hành cùng Chính phủ và các bộ, ngành trong việc phát triển vật liệu thay thế. Đặc biệt là quan tâm đến việc chuyển đổi kỹ thuật xây dựng, sử dụng công trình xanh, từng bước giảm áp lực lên cát sông trong tương lai, bảo tồn sự đa dạng sinh học và phát triển bền vững cho ĐBSCL. Những kết quả nghiên cứu từ ngân hàng cát sẽ tiếp tục được sử dụng để xây dựng một kế hoạch duy trì ổn định hình thái sông cho ĐBSCL, đưa ra những khuyến nghị, hướng dẫn về khai thác cát sỏi bền vững và lồng ghép trong chính sách phòng chống thiên tai, phát triển bền vững ở ĐBSCL.
Thu Hằng
Bình luận