Hotline: 0941068156
Thứ năm, 20/03/2025 02:03
Thứ tư, 19/03/2025 15:03
TMO – Cần giải pháp xử lý vướng mắc của các dự án điện khí LNG; làm rõ tiến độ và tính khả thi của các dự án. Đối với danh mục dự án do địa phương và doanh nghiệp đề xuất, Bộ Công Thương có trách nhiệm nêu đầy đủ những mặt thuận, mặt không thuận và đề xuất hướng xử lý.
Theo đó, tại cuộc họp rà soát Đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VIII trước khi trình Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh về sự cần thiết phải có danh mục các dự án dự phòng, bao gồm cả các dự án của nhà đầu tư tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài khả thi, không để thiếu điện trong mọi tình huống. Quy hoạch phải khai thác tốt tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của từng địa phương, vừa tạo điều kiện cho các địa phương khó khăn phát triển được, vừa bảo đảm an ninh năng lượng, cân đối giữa các vùng miền, các loại hình điện.
Phó Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải có giải pháp xử lý vướng mắc của các dự án điện khí LNG; làm rõ tiến độ và tính khả thi của các dự án. Đối với danh mục dự án do địa phương và doanh nghiệp đề xuất, Bộ Công Thương có trách nhiệm nêu đầy đủ những mặt thuận, mặt không thuận và đề xuất hướng xử lý. Đồng thời giao Bộ Công Thương tiếp thu tối đa ý kiến tại cuộc họp, tiếp tục rà soát cập nhật đầy đủ ý kiến chỉ đạo của Thường trực Chính phủ, hoàn thiện Quy hoạch trình Thủ tướng Chính phủ.
(Ảnh minh họa)
Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII đã được lãnh đạo Chính phủ xác định là nhiệm vụ đặc biệt cấp bách để nhanh chóng tìm ra các giải pháp cung cấp đủ điện trong giai đoạn phát triển tăng tốc sắp tới của đất nước. Đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VIII có một số cách tiếp cận mới như: Phát triển nguồn điện ngoài đáp ứng nhu cầu trong nước, bao gồm cả nhu cầu công suất nguồn điện cho mua bán điện trực tiếp (DPPA), đồng thời xét đến nhu cầu xuất khẩu điện và sản xuất năng lượng mới. Phát triển hợp lý các nguồn nhiệt điện, đưa điện hạt nhân có công nghệ tiên tiến, bảo đảm an toàn trở thành nguồn điện nền quan trọng, góp phần đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Phát triển tối đa nguồn năng lượng tái tạo theo tiềm năng, thế mạnh từng vùng, bảo đảm yếu tố kinh tế-kỹ thuật trong từng giai đoạn quy hoạch, phù hợp với sự phát triển của khoa học-công nghệ; kết hợp với đầu tư lưới điện thông minh để đảm bảo độ tin cậy và chất lượng dịch vụ cung cấp điện. Phát triển hợp lý các đường dây tải điện liên vùng, liên miền, góp phần tối thiểu hoá chi phí sản xuất điện toàn hệ thống; tăng cường hơn nữa liên kết trao đổi hợp tác về điện với các nước láng giềng, các nước ASEAN để tận dụng tiềm năng năng lượng của từng nước, tối ưu hoá vận hành hệ thống liên kết. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển điện lực, bao gồm cả đầu tư lưới điện truyền tải, trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện theo cơ chế thị trường về giá mua bán điện, bảo đảm hài hoà lợi ích của các bên và đáp ứng yêu cầu phát triển của từng vùng, miền.
Quy hoạch điện VIII (Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050) được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023. Quy hoạch đặt mục tiêu bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện thành công chuyển đổi năng lượng công bằng gắn với hiện đại hóa sản xuất, xây dựng lưới điện thông minh, quản trị hệ thống điện tiên tiến, phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh, giảm phát thải, phát triển khoa học công nghệ của thế giới. Hình thành hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tổng thể dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới.
Cụ thể: Về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia (Cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021 - 2030, khoảng 6,5 - 7,5%/năm trong giai đoạn 2031 – 2050, trong đó điện thương phẩm: Năm 2025 khoảng 335,0 tỷ kWh; năm 2030 khoảng 505,2 tỷ kWh; đến năm 2050 khoảng 1.114,1 - 1.254,6 tỷ kWh. Điện sản xuất và nhập khẩu: Năm 2025 khoảng 378,3 tỷ kWh; năm 2030 khoảng 567,0 tỷ kWh; đến năm 2050 khoảng 1.224,3 - 1.378,7 tỷ kWh. Công suất cực đại: Năm 2025 khoảng 59.318 MW; năm 2030 khoảng 90.512 MW; đến năm 2050 khoảng 185.187 - 208.555 MW. Bảo đảm cung cấp điện an toàn, tin cậy, đáp ứng tiêu chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối với vùng phụ tải đặc biệt quan trọng. Đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện năng thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN. Phấn đấu đến năm 2030 có 50% các tòa nhà công sở và 50% nhà dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu (phục vụ tiêu thụ tại chỗ, không bán điện vào hệ thống điện quốc gia).
Về chuyển đổi năng lượng công bằng (Phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện, đạt tỷ lệ khoảng 30,9 - 39,2% vào năm 2030, hướng tới mục tiêu tỷ lệ năng lượng tái tạo 47% với điều kiện các cam kết theo Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với Việt Nam được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất. Định hướng đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 - 71,5%. Kiểm soát mức phát thải khí nhà kính từ sản xuất điện đạt khoảng 204 - 254 triệu tấn năm 2030 và còn khoảng 27 - 31 triệu tấn vào năm 2050. Hướng tới đạt mức phát thải đỉnh không quá 170 triệu tấn vào năm 2030 với điều kiện các cam kết theo JETP được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất. Xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, đủ khả năng tích hợp, vận hành an toàn hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn).
Về phát triển hệ sinh thái công nghiệp và dịch vụ năng lượng tái tạo (Dự kiến đến 2030, hình thành 02 trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng bao gồm sản xuất, truyền tải và tiêu thụ điện; công nghiệp chế tạo thiết bị năng lượng tái tạo, xây dựng, lắp đặt, dịch vụ liên quan, xây dựng hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tái tạo tại các khu vực có nhiều tiềm năng như Bắc Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ khi có các điều kiện thuận lợi. Phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo và sản xuất năng lượng mới phục vụ xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2030, quy mô công suất xuất khẩu điện đạt khoảng 5.000 - 10.000 MW).../.
ĐOÀN VINH
Bình luận