Hotline: 0941068156

Thứ hai, 25/11/2024 02:11

Tin nóng

Đa cổ thụ ở Phú Xuyên được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Từ năm 2025 áp dụng mức tiêu chuẩn khí thải xe cơ giới nhập khẩu

25 giải sẽ được trao trong Lễ công bố, trao giải Cuộc thi viết về Cây Di sản Việt Nam năm 2024

Việt Nam chia sẻ 3 bài học trong xóa đói giảm nghèo tại G20

Ứng Hoà (Hà Nội): Hai cây cổ thụ được công nhận Cây Di sản Việt Nam

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính lên đường dự Hội nghị G20

COP29: ‘Tài chính khí hậu là an ninh toàn cầu, không phải đi làm từ thiện’

COP29: Việt Nam ủng hộ quan điểm cần đảm bảo mục tiêu tài chính khí hậu

Phấn đấu tăng trưởng GDP năm 2025 khoảng 7,0-7,5%

Tăng trưởng GDP Việt Nam có thể cao nhất khu vực ASEAN +3

Bão giật cấp 17 có thể suy yếu khi gần bờ

Theo dõi chặt chẽ, triển khai các biện pháp ứng phó bão Yinxing

Tiểu vùng Mekong mở rộng: Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo với 3 trụ cột

Bão giật cấp 17 sắp vào Biển Đông

Trong 10 tháng, thiên tai gây thiệt hại trên 78 nghìn tỷ đồng

Việt Nam – UAE: Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác kinh tế thương mại, văn hóa xã hội

Quảng Nam: Bão số 6 áp sát gây mưa lớn, gió giật cấp 10

Cảnh báo nguy cơ mưa lớn khu vực miền Trung do bão Trà Mi

Quảng Ngãi: Cấm biển từ 10h ngày hôm nay ứng phó bão Trà Mi

Theo dõi sát diễn biến của bão Trà Mi

Thứ hai, 25/11/2024

Bảo vệ môi trường trong hoạt động khai khoáng

Thứ ba, 01/11/2022 11:11

TMO - Tài nguyên khoáng sản của Việt Nam khá đa dạng và phong phú, với trên 5.000 điểm mỏ, quặng của khoảng 60 loại khoáng sản khác nhau nằm rải rác ở các tỉnh trên cả nước.

Theo số liệu thống kê, các hồ chứa có dung tích đa dạng từ vài chục nghìn đến hàng triệu m3, tuỳ thuộc vào công suất khai thác mỏ. Trên cả nước hiện có 10 hồ có dung tích trên 1 triệu m3; 38% các đập khảo sát được xây dựng bằng đất, 32% sử dụng kết hợp vật liệu đất, đá, bê tông, số lượng các đập xây bằng bê tông và đá hộc chỉ chiếm tương ứng 5% và 3%; 20/120 đập chắn được nâng chiều cao nhưng 70% đập được nâng chiều cao không lập phương án thiết kế, các trường hợp còn lại đều do chủ đầu tư tự lập và phê duyệt; 39% doanh nghiệp không lập kế hoạch vận hành, bảo trì đập và hồ chứa trong quá trình sản xuất.

Do chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế hồ, đập chứa quặng đuôi nên hầu hết hồ, đập hiện tại được thiết kế, xây dựng vận dụng các quy định đối với hồ, đập chứa nước. Thực tế cho thấy, quá trình vận hành hồ, đập chứa quặng đuôi gây ra nhiều sự cố về an toàn và môi trường (mặc dù đều được xây dựng theo đúng thiết kế được phê duyệt ban đầu). Khi xảy ra sự cố thì doanh nghiệp, cơ quan quản lý đều bị động, không rõ trách nhiệm quản lý thuộc về cơ quan nào và không có phương án chủ động ứng phó sự cố kịp thời.

Khai thác khoáng sản tác động rất lớn đến môi trường nếu không được tính toán kỹ cũng như thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Ảnh minh hoạ.

Theo các chuyên gia, trên thực tế đã xảy ra nhiều sự cố liên quan đến hồ chứa quặng đuôi. Trong khi đó chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về quản lý an toàn các hồ chứa quặng đuôi, từ lựa chọn vị trí, thiết kế, xây dựng, vận hành đến cải tạo, phục hồi môi trường các hồ thải. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật hiện tại (bao gồm Luật Bảo vệ môi trường 2014, Nghị định 40/2019/NĐCP, Thông tư 26/2016/TT-BCT, Báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án) mới chỉ quy định chung chung ở khâu thiết kế, xây dựng ban đầu (Khoản 2, Điều 52a, Nghị định 40). Nghị định 98/2017/NĐ-CP thì lĩnh vực công nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản thuộc thẩm quyền quản lý Nhà nước của Bộ Công Thương.

Tài nguyên khoáng sản của Việt Nam khá đa dạng và phong phú, với trên 5.000 điểm mỏ, quặng của khoảng 60 loại khoáng sản khác nhau nằm rải rác ở các tỉnh trên cả nước. Song hiện nay, công tác khai thác khoáng sản ở nước ta chủ yếu áp dụng phương pháp khai thác lộ thiên. Phương pháp khai thác hầm lò chủ yếu được áp dụng với quặng chì kẽm, vàng và một số loại khác với công suất nhỏ. So với các hoạt động công nghiệp khác, khai thác và chế biến khoáng sản tạo ra khối lượng lớn các chất thải rắn, đôi khi gần bằng lượng đất đá đào được, do đó chiếm dụng nhiều diện tích đất đai để chứa các loại chất thải này.

Do đó, trong nhiều trường hợp nhất định, nếu không được nghiên cứu đánh giá đầy đủ ngay từ đầu thì việc đóng cửa hay di dời các cơ sở khai thác và chế biến khoáng gây ô nhiễm cũng không có tác dụng hạn chế việc ô nhiễm tiếp tục kéo dài. Vì vậy, để bảo vệ môi trường cần tái sử dụng nước thải; tái sử dụng chất thải rắn. Cụ thể, nước thải đã qua xử lý được tái sử dụng vào các dây chuyền sản xuất. Nguồn nước tái sử dụng sau khi xử lý phục vụ chủ yếu cho công tác sàng tuyển, phun sương dập bụi, vệ sinh thiết bị.

Đối với nước thải sản xuất nhà máy tuyển: Theo quy trình công nghệ, nước thải từ quá trình tuyển quặng được đưa vào các bể cô đặc. Tại đây, cùng với chất trợ lắng, nước được lắng trong, phần chủ yếu được bơm tuần hoàn trở lại cho quá trình sản xuất, cơ bản không xả thải ra ngoài môi trường.

Với giải pháp tái sử dụng chất thải rắn: Đất bóc, đất đá thải sẽ được sử dụng để cải tạo phục hồi môi trường. Riêng với quặng đuôi, có nhiều giải pháp tách nước khỏi quặng đuôi như để bốc hơi, để lắng trong rồi tái sử dụng hoặc để tràn tự nhiên, có thể bơm hút hoặc tháo nước chảy tự nhiên qua tháp thu nước trong... cần thu hồi tối đa lượng nước thải từ hồ thải quặng đuôi để tái sử dụng và hạn chế lượng nước thấm xuống đất. Bố trí các công trình thu nước, xả lũ và thoát nước không để nước tràn qua đỉnh đập, đảm bảo an toàn cho công trình, hạn chế ảnh hưởng xấu đến môi trường. Nước xả lũ cần được thu gom và xử lý đảm bảo yêu cầu môi trường trước khi sử dụng tuần hoàn hoặc xả thải vào nguồn nước khu vực.

 

 

Phạm Dung

 

 

Thích và chia sẻ bài viết:

Bình luận

    Bình luận của bạn

    cmt
      Web đang chạy kỹ thuật
      Zalo phone Hotline