Hotline: 0941068156
Thứ tư, 27/11/2024 16:11
Thứ hai, 02/01/2023 09:01
TMO - Thời gian qua, việc bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững ở nước ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số hạn chế, bất cập. Do đó, cần phải có sự quyết tâm, nỗ lực cao hơn nữa của cả hệ thống chính trị, sự tham gia và vào cuộc có trách nhiệm của mỗi người dân, doanh nghiệp đối với công tác bảo vệ môi trường, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức về lối sống bền vững hài hòa với thiên nhiên; bảo vệ môi trường...
Nhận diện thách thức về môi trường ở nước ta hiện nay
Những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, trong đó kinh tế tăng trưởng mạnh, trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh; đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao; y tế và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường; quốc phòng, an ninh được củng cố và ổn định; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả,... Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã tạo áp lực lớn đối với môi trường sinh thái.
Tạo chuyển biến trong công tác bảo vệ môi trương hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Ảnh minh hoạ
Tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến phức tạp, chất lượng môi trường nhiều nơi suy giảm mạnh, không còn khả năng tiếp nhận chất thải, đặc biệt ở các khu vực tập trung nhiều hoạt động công nghiệp; đa dạng sinh học và chất lượng rừng suy thoái đến mức báo động, nguồn gen bị thất thoát; hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng;..., gây hậu quả nghiêm trọng, sinh thái bị đe dọa. Những vấn đề này cản trở mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Có nhiều nguyên nhân tác động đến môi trường. Trong đó phải kể đến là mức độ đô thị hóa ngày càng cao, công tác quản lý khai thác tài nguyên thiên nhiên còn nhiều hạn chế, phát sinh nhiều nguồn gây ô nhiễm, chất thải ngày càng tăng về thành phần và khối lượng, kết cấu hạ tầng thu gom và xử lý chất thải còn thiếu và không được đầu tư đồng bộ, dẫn đến các áp lực lên môi trường ngày càng cao, tác động xấu đến chất lượng môi trường; Môi trường sinh thái nước ta chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu toàn cầu, các vấn đề môi trường phi truyền thống gia tăng cùng với hội nhập thương mại quốc tế và thách thức từ vấn đề ô nhiễm môi trường xuyên biên giới…
Hoạt động tại lễ ra quân “Ngày chủ nhật xanh” toàn quốc lần thứ nhất năm 2022 - Ảnh: Quang Khải
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
Những năm qua, bảo vệ môi trường, tăng cường quản lý tài nguyên, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Kể từ khi đổi mới đất nước, hệ thống các quan điểm về bảo vệ môi trường của Đảng ta đã thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt. Các nhiệm kỳ đại hội thường xuyên tổng kết, bổ sung, hoàn thiện các quan điểm cho phù hợp với từng bối cảnh phát triển đất nước và ban hành nhiều văn bản về bảo vệ môi trường.
Ngay từ năm 1991, Chính phủ Việt Nam đã thông qua Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững 1991 - 2000. Tiếp theo đó, quan điểm về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã được lồng ghép xuyên suốt trong các chiến lược, kế hoạch, như Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, 2021 - 2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015, 2016 - 2020, 2021 - 2025.
Bên cạnh đó, trên cơ sở 17 mục tiêu phát triển bền vững của thế giới trong giai đoạn 2015 - 2030 được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc vào tháng 9/2015; ngày 10/5/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg “Về việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững”, xác định 17 mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030, trong đó có tới 4 mục tiêu trực tiếp về bảo vệ môi trường.
Nhóm triển khai Dự án "Rừng Việt Nam" tại Sơn Trà, Đà Nẵng
Ngoài ra, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững” (khoản 2 Điều 4) và giải thích: “Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu” (khoản 2, Điều 3).
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Trần Hồng Hà phát biểu tại Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ V do Bộ TN&MT được tổ chức vào đầu tháng 08/2022 cho biết: Kể từ sau Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ IV năm 2015 đến nay, công tác bảo vệ môi trường đã có sự chuyển biến rất mạnh mẽ từ chủ trương, giải pháp đến nhận thức và tư duy hành động.
Vấn đề môi trường luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong các chương trình nghị sự; các chương trình, chiến lươc, quy hoạch, kế hoạch phát triển của đất nước với mục tiêu cao nhất là bảo vệ sức khỏe Nhân dân, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái. Xây dựng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường đã được đưa vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định chủ trương “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”, “xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn”.
Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và chung tay của toàn dân công tác bảo vệ môi trường đã chuyển bị động sang ứng phó, sang chủ động phòng ngừa, bảo vệ và phục hồi. Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đã được hoàn thiện, trong đó Luật Bảo vệ môi trường 2020 với nhiều chính sách, giải pháp đột phá, đánh dấu giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ trong công tác bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu cao nhất cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân. Chất lượng môi trường sống tiếp tục được cải thiện. Các mô hình, công nghệ hiện đại được triển khai trong tái chế, xử lý chất thải. Hoạt động quan trắc, cảnh báo, dự báo về chất lượng môi trường được nâng cao, cung cấp thông tin về môi trường phục vụ tốt cho hoạt động phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Nhiều phong trào, mô hình điển hình về BVMT đã đi vào cuộc sống, trở thành hành động và nếp sống của mọi người, mọi nhà và cộng đồng xã hội như vấn đề rác thải nhựa, bảo vệ môi trường nơi sinh sống,… ngày càng đóng góp thiết thực cho công tác BVMT.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà tại Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ V
Nhiệm vụ trọng tâm bảo vệ môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
Những giải pháp đồng bộ, thực thi hiệu quả ngay lúc này nhằm giải quyết hiệu quả các nguy cơ, thách thức phải đối mặt, tiến tới mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra: “Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các mục tiêu bảo vệ môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, trong giai đoạn 2022-2025, ngành Môi trường xác định một số hoạt động chính. Tại Hội nghị Môi trường toàn quốc, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân cho biết 6 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm ngành cần tiếp tục tập trung thực hiện trong giai đoạn 2022-2025 như sau:
Thứ nhất, tổ chức triển khai có hiệu quả Luật Bảo vệ Môi trường 2020. Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về môi trường hướng tới mục tiêu tiệm cận với các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ hai, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động đánh giá môi trường chiến lược với các chiến lược, quy hoạch, đánh giá tác động đối với các dự án đầu tư phát triển, trọng tâm là triển khai đồng bộ, hiệu quả các chế định mới của Luật nhằm sàng lọc dự án đầu tư và chủ động phòng ngừa, kiểm soát, giảm thiểu nguy cơ xảy ra ô nhiễm, đặc biệt các dự án có yếu tố nhạy cảm liên quan đến bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, chuyển đổi đất rừng; thiết lập cơ chế công khai nội dung báo cáo Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) để tham vấn rộng rãi ý kiến của các cá nhân, tổ chức trong quá trình thẩm định báo cáo ĐTM; xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về áp dụng, công nhận kỹ thuật hiện có tốt nhất đối với một số loại hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Thứ ba, tăng cường giám sát, kiểm soát các nguồn thải từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ thông qua duy trì, tăng cường hiệu quả mô hình tổ giám sát 4 bên; kiểm soát, giám sát chặc chẽ khu vực tập trung nhiều nguồn thải tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông…; triển khai kế hoạch giám sát, xử lý khu vực, điểm nóng về môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường.
Thứ tư, quản lý chất thải rắn, trọng tâm là quản lý tốt chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nhựa. Trong đó, triển khai ngay việc phân loại rác tại nguồn và thu phí theo lượng chất thải rắn phát sinh, đảm bảo tỷ lệ rác thải sinh hoạt được thu gom và xử lý tại khu vực đô thị đến năm 2025 duy trì ở mức 90%. Mở rộng mạng lưới dịch vụ thu gom chất thải rắn ở khu vực nông thôn. Thiết lập mạng lưới các cơ sở xử lý chất thải rắn tập trung theo hướng liên vùng, liên tỉnh. Áp dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, xử lý kết hợp với thu hồi năng lượng. Thực hiện hiệu quả các quy định về trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu trong thu hồi, tái chế thủ công, quy mô nhỏ, gây ô nhiễm môi trường; giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, thu gom và xử lý chất thải nhựa.
Thứ năm, quản lý chất lượng môi trường, cải tạo, phục hồi môi trường, tập trung vào kiểm soát ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường không khí ở các đô thị thông qua việc lập và thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp quốc gia và cấp tỉnh; đầu tư phát triển hệ thống trạm quan trắc không khí tự động; đầu tư, ứng dụng công nghệ để hoàn thiện nâng cao năng lực dựa báo, cảnh báo môi trường. Kiểm soát khí thải đối với xe cơ giới; xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển đổi, loại bỏ phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch, phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường.
Đồng thời xử lý nước thải, kiểm soát, quản lý, bảo vệ môi trường nước và các lưu vực sông thông qua xây dựng và thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với các sông, hồ; đánh giá chất lượng môi trường nước mặt, trầm tích, khả năng chịu tải, công bố khả năng chịu tải của môi trường nước mặt đối với một số sông không còn khả năng chịu tải để làm căn cứ cho việc phê duyệt báo cáo ĐTM, cấp giấy phép môi trường. Đầu tư hệ thống thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt kết hợp với cải tạo, phục hồi các hồ ao, kênh mương ở các đô thị lớn.
Bảo vệ môi trường đất, phục hồi các khu vực bị ô nhiễm hóa chất tồn lưu; xây dựng và thực hiện kế hoạch xử lý, cải tạo và phục hồi các khu vực bị ô nhiễm môi trường đất đặc biệt nghiêm trọng trên phạm vi cả nước.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Đầu tư bảo vệ và phát triển các nguồn vốn tự nhiên. Tiếp tục đẩy mạnh, thiết lập và quản lý bền vững khu bảo tồn thiên nhiên, các hành lang đa dạng sinh học, khu vực đa dạng sinh học cao, vùng đất ngập nước, cảnh quan thiên nhiên quan trọng.
Triển khai các mô hình bảo tồn, sử dụng bền vững các hệ sinh thái. Tiếp tục triển khai Đề án trồng 1 tỷ cây xanh cho Việt Nam. Xây dựng và thực hiện các chương trình bảo tồn loài động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm, cây trồng vật nuôi được ưu tiên bảo vệ.
Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn dân về bảo vệ môi trường, từ đó dẫn đến sự thay đổi nhận thức và hành vi của từng cá nhân, cộng đồng. Công tác tuyên truyền, hướng dẫn triển khai Luật Bảo vệ Tài nguyên môi trường năm 2020 và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật cần tập trung vào các quy định mới. Thực hiện các chương trình truyền thông, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền về bảo vệ môi trường.
Thiên Trường
Bình luận