Hotline: 0941068156
Thứ tư, 27/11/2024 14:11
Thứ tư, 29/05/2024 19:05
TMO - Lâm nghiệp đóng vai trò lớn trong việc giảm phát thải, tuy nhiên, kế hoạch bảo vệ rừng và đưa lâm nghiệp vào khai thác tiềm năng giảm phát thải vẫn còn nhiều hạn chế, điều này khiến lượng hấp thụ carbon trung bình năm 2020 tại Việt Nam là âm 40 triệu tấn CO2e, gây ra lượng phát thải lớn.
Theo các chuyên gia, để đạt mục tiêu đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 cần những biện pháp phát triển lâm nghiệp và sử dụng đất hợp lý. Theo đó, cần thiết phải phát triển lâm nghiệp nhằm giúp tăng năng suất, chất lượng rừng trồng thông qua bảo vệ rừng tự nhiên hiện có ở vùng đồi núi, bảo vệ rừng ven biển, phục hồi rừng đặc dụng và rừng phòng hộ; giảm phát thải và phát thải carbon thấp trong việc nâng cao chất lượng và trữ lượng carbon rừng tự nhiên nghèo, rừng trồng gỗ lớn; quản lý rừng bền vững; giảm nhẹ rủi ro thiên tai dựa vào rừng và duy trì che phủ rừng 42%, bảo vệ đa dạng sinh học. Cũng theo các chuyên gia, tiềm năng giảm phát thải dựa vào các biện pháp này theo dự tính từ năm 2021 – 2030, vùng Bắc Trung Bộ chiếm tỷ lệ giảm phát thải cao nhất khoảng 22,6%, Tây Bắc 18,2%, Tây Nguyên là 16%,… Tuy nhiên, đối với vùng Tây Nam Bộ chỉ với 3,4%, vì vậy, cần chú trọng phát triển lâm nghiệp theo các biện pháp bảo vệ rừng phòng hộ, rừng ngập mặn và rừng gỗ lớn.
(Ảnh minh họa)
Để các biện pháp trên trở nên hiệu quả và đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính vào năm 2030, tầm nhìn 2050, Việt Nam đã xây dựng Chương trình Giảm phát thải áp dụng cho vùng Bắc Trung Bộ triển khai thực hiện từ 2014 cho đến nay, nhằm thúc đẩy thị trường thương mại carbon trong lâm nghiệp, giao dịch tín chỉ carbon trong nước và quốc tế. Trong đó, vùng thực hiện giảm phát thải được thông qua 6 tỉnh thành: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế với 2,8 triệu ha rừng (55%) và 2,1 triệu ha rừng tự nhiên, nhằm đánh giá tính dễ bị tổn thương và có nguy cơ chịu rủi ro thiên tai cao dưới tác động của biến đổi khí hậu.
Nhờ Chương trình Giảm phát thải, Việt Nam đã xác định được nguyên nhân gây mất rừng và suy thoái rừng, cùng với đó, nguyên nhân chính do chuyển đổi rừng tự nhiên nghèo theo kế hoạch sang trồng cao su và sử dụng cho đất nông nghiệp khác; chuyển đổi rừng tự nhiên nghèo theo quy hoạch sang rừng trồng; chuyển đổi rừng tự phát sang xâm lấn; ảnh hưởng từ thuỷ điện và cơ sở hạ tầng; khai thác gỗ. Từ đó, dẫn đến những nguyên nhân sâu xa như: Chuyển đổi đất rừng bị cày cấy sang sử dụng đất có giá trị cao hơn; thiếu hỗ trợ cho quản lý rừng bền vững; thực hiện không đầy đủ các chính sách bảo vệ rừng tự nhiên.
Để tăng cường giảm phát thải từ rừng cần có các giải pháp khắc phục tồn tại như: Tăng cường điều kiện cần thiết cho giảm phát thải thông qua chuyển đổi rừng tự nhiên và thực thi pháp luật quản trị rừng bền vững; tăng cường chất lượng rừng thông qua bảo vệ, phục hồi nâng cao rừng tự nhiên hiện có và nâng cao trữ lượng rừng trồng; thúc đẩy nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu và sinh kế bền vững cho người dân, phụ thuộc vào rừng qua việc cải thiện sản xuất nông nghiệp và sinh kế đa dạng bền vững,… Ngoài ra, cần xây dựng các phương án trong cách tiếp cận trong đo đạc, theo dõi và báo cáo dữ liệu bản đồ kiểm kê rừng quốc gia từ năm 2005 – 2020; phương trình dự báo sinh khối quốc gia và trữ lượng carbon các loại rừng từ năm 2005 – 2020 để có thể ước tính lượng phát thải, hấp thụ carbon, từ đó đưa ra đề xuất giải pháp tính toán cho từng tỉnh và toàn vùng.
Đồng thời, nhằm giảm phát thải khí nhà kính và tăng tiềm năng phát triển thương mại carbon trong lâm nghiệp, các chuyên gia đề xuất, cần có thêm khung pháp lý rõ ràng về đầu tư, quyền carbon, chia sẻ lợi ích; cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương; đảm bảo năng lực kỹ thuật trong toàn bộ quá trình thực hiện, đặc biệt là năng lực về xây dựng dự án, đo đạc, báo cáo và thẩm định. Ngoài ra, cần đảm bảo minh bạch, công khai thông tin, dữ liệu phục vụ cho đo đạc, báo cáo thẩm định, chia sẻ lợi ích, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn môi trường xã hội và tối ưu hoá nguồn lực đầu tư thông qua lồng ghép các chương trình, dự án, đa dạng thị trường carbon, đảm bảo được hiệu quả thực hiện…/.
HẢI YẾN
Bình luận